20-11-2025 06:31 | Thời sự


Từ cổng trường vùng cao, cô giáo trẻ ngăn những cuộc hôn nhân sớm- Ảnh 1.
Từ cổng trường vùng cao, cô giáo trẻ ngăn những cuộc hôn nhân sớm- Ảnh 2.

Học sinh lớp 9 tại Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Tiểu học & THCS Hồng Thái trong giờ Toán của cô Dương Kim Ngân.

Hồng Thái, một xã vùng cao của tỉnh Tuyên Quang, vẫn còn nhiều khó khăn; thời tiết khắc nghiệt, đời sống thiếu thốn, việc đến lớp của học sinh phụ thuộc lớn vào điều kiện gia đình. Hơn mười năm trước, sau khi tốt nghiệp Khoa Toán, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, cô Dương Kim Ngân (sinh năm 1992) nhận công tác tại Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Tiểu học & THCS Hồng Thái với suy nghĩ ban đầu chỉ là tạm thời.

Nhưng chỉ đến khi đặt chân lên Hồng Thái, cô mới thực sự cảm nhận được thế nào là "vùng cao". Quãng đường gần 9 km lên điểm trường mất hơn hai giờ di chuyển trên lối đất dốc đứng, ngoằn ngoèo, lổn nhổn đá. Vào mùa đông, sương mù phủ dày từ sáng đến tối, có ngày lớp học chìm trong lạnh giá. Thế nhưng, ý chí và khát vọng học tập của những học sinh người Dao và Mông nơi đây đã khiến cô lựa chọn ở lại, đón gia đình lên cùng sinh sống và bắt đầu hành trình mà cô gọi là: "giữ học sinh trước khi giữ kiến thức".

"Ở đây, học sinh có thể thuộc bài nhưng vẫn có nguy cơ rời trường bởi những quyết định không do các em lựa chọn", cô chia sẻ. Với cô, ở lại không chỉ là lựa chọn nghề nghiệp, mà là đứng về phía những đứa trẻ dễ bị bỏ lại phía sau.

Từ cổng trường vùng cao, cô giáo trẻ ngăn những cuộc hôn nhân sớm- Ảnh 3.

Sương mù phủ kín sân trường – hình ảnh đặc trưng của Hồng Thái mỗi mùa đông.

Từ cổng trường vùng cao, cô giáo trẻ ngăn những cuộc hôn nhân sớm- Ảnh 4.

Cô hiểu rằng khó khăn lớn nhất của học sinh nơi đây không chỉ là thiếu thốn vật chất, mà còn là khoảng trống tinh thần. Nhiều em có bố mẹ quanh năm lên nương hoặc đi làm xa, ít được quan tâm nên dễ tủi thân, mất động lực, thậm chí nghĩ đến việc bỏ học. Không ít em còn chịu tác động của tảo hôn, muốn lập gia đình khi chưa trưởng thành và chưa hiểu hệ lụy. Đây không chỉ là câu chuyện ở Hồng Thái mà là thực trạng đáng lo tại nhiều tỉnh miền núi phía Bắc.

Theo Khảo sát SDGCW 2020–2021 của Tổng cục Thống kê phối hợp UNICEF Việt Nam, khoảng 23,1% phụ nữ ở độ tuổi 20-49 tại khu vực Trung du và miền núi phía Bắc từng kết hôn hoặc sống như vợ chồng từ trước khi đủ 18 tuổi, một con số cho thấy áp lực tảo hôn vẫn hiện hữu và phổ biến.

Chứng kiến học trò nghỉ học để lấy chồng, lấy vợ khi chưa hiểu đời, cô Ngân tự hỏi điều gì có thể giữ các em ở lại trường. Từ đó, cô lên ý tưởng và đề xuất nhà trường thành lập Câu lạc bộ Phòng chống tảo hôn nhằm trang bị kiến thức pháp luật, kỹ năng tự bảo vệ, dám nói "không" với định kiến và tự tin theo đuổi việc học. Đồng thời, cô mở lớp phụ đạo miễn phí môn Toán để hỗ trợ học sinh học chậm, không chỉ bù đắp kiến thức mà còn giúp các em giữ niềm vui đến lớp.

Từ cổng trường vùng cao, cô giáo trẻ ngăn những cuộc hôn nhân sớm- Ảnh 5.
Từ cổng trường vùng cao, cô giáo trẻ ngăn những cuộc hôn nhân sớm- Ảnh 6.
Từ cổng trường vùng cao, cô giáo trẻ ngăn những cuộc hôn nhân sớm- Ảnh 7.

Sân trường trở thành không gian rèn luyện thể chất, kỹ năng và tinh thần đồng đội cho học sinh.

Hầu hết học sinh sống bán trú, xa gia đình nên dễ tủi thân và thiếu điểm tựa tinh thần. Câu chuyện khiến cô nhớ mãi là trường hợp của Hân – học sinh người Dao, nhà cách trường gần 30 km, mẹ bị liệt, bố một mình chăm sóc mẹ và bà già yếu. Vào mùa gặt, nhiều lần cô thấy Hân lặng lẽ cúi mặt, rồi bật khóc ngay trong lớp vì thương bố và muốn nghỉ học để về nhà phụ giúp.

Thấu hiểu tâm lý của em, cô Ngân chủ động dành thời gian trò chuyện riêng, gọi điện trao đổi với gia đình để tìm giải pháp phù hợp. Cô nhẹ nhàng phân tích cho Hân hiểu rằng: nếu nghỉ học lúc này, con đường phía trước sẽ càng khó khăn; còn tiếp tục học chính là cách lâu dài và bền vững nhất để giúp cha mẹ vượt qua nghèo khó. "Con cứ yên tâm học. Hãy cố gắng để sau này có thể giúp bố bằng cách tốt hơn", cô động viên.

Nhờ sự đồng hành kiên trì của cô giáo và sự đồng thuận của gia đình, Hân quyết định tiếp tục ở lại trường, hoàn thành chương trình THPT và hiện đã đi làm, tự đứng vững để phụ giúp gia đình theo cách trưởng thành hơn.

Từ cổng trường vùng cao, cô giáo trẻ ngăn những cuộc hôn nhân sớm- Ảnh 8.

Năm học 2023–2024, cô Ngân thành lập Đội tuyên truyền phòng, chống tảo hôn và vận động học sinh trở lại trường, gồm 40 học sinh và 5 giáo viên, tuyển theo nguyện vọng, trong đó có những em từng có ý định tảo hôn hoặc gia đình có người tảo hôn để trở thành "người kể chuyện thật".

Các buổi sinh hoạt định kỳ gồm xem video, diễn tiểu phẩm, thảo luận và giao lưu với tấm gương vượt khó. Nhờ đó, thông điệp lan tỏa không chỉ trong trường mà đến từng thôn, bản. Sau hơn hai năm hoạt động, đội đã vận động thành công 8 học sinh quay lại trường và ngăn chặn 3 trường hợp có nguy cơ tảo hôn. Với cô, xúc động nhất là khi học sinh tự tin trước cộng đồng, trở thành "tuyên truyền viên nhí", mang tri thức trở về bản làng.

Từ cổng trường vùng cao, cô giáo trẻ ngăn những cuộc hôn nhân sớm- Ảnh 9.
Từ cổng trường vùng cao, cô giáo trẻ ngăn những cuộc hôn nhân sớm- Ảnh 10.
Từ cổng trường vùng cao, cô giáo trẻ ngăn những cuộc hôn nhân sớm- Ảnh 11.
Từ cổng trường vùng cao, cô giáo trẻ ngăn những cuộc hôn nhân sớm- Ảnh 12.

Học sinh hăng hái tham gia hoạt động của Câu lạc bộ Phòng chống tảo hôn, nơi các em được tiếp thêm niềm tin và kỹ năng để tự quyết định tương lai.

Một trong những trường hợp khiến thầy cô day dứt nhất là một nữ sinh người Mông. Khi nhà trường và chính quyền địa phương đến vận động, gia đình đã đồng ý, nhưng em lại chọn theo chồng. Do ảnh hưởng phong tục lạc hậu, nếu từ chối, em có nguy cơ bị ép "ăn lá ngón", nên dù đã nhiều lần động viên, tất cả đều bất lực nhìn em rời lớp.

Vài năm sau, cô gặp lại em – người mẹ trẻ bế con gái một tuổi, trở về nhà mẹ đẻ sau khi bị bạo hành. Khi được hỏi có hối tiếc không, em bật khóc: "Em khổ quá cô ạ. Nếu biết trước, em đã nghe lời thầy cô. Sau này, em sẽ nuôi con gái học thật tốt, không để con khổ như em nữa".

Lời nói đó khiến cô xót xa nhưng cũng là minh chứng cho giá trị của nghề gieo chữ: thay đổi nhận thức, chứ không chỉ trang bị kiến thức.

Cô cho rằng công tác phòng, chống tảo hôn cần triển khai theo mô hình bài bản, có sự phối hợp đa ngành và lan tỏa. Mô hình của cô hiện được nghiên cứu để nhân rộng tại các điểm trường vùng cao như một giải pháp bền vững.

Từ cổng trường vùng cao, cô giáo trẻ ngăn những cuộc hôn nhân sớm- Ảnh 13.

Giáo viên đến từng nhà để tuyên truyền, vận động học sinh tiếp tục đến trường, tránh nguy cơ tảo hôn.

Theo cô Ngân, để mô hình duy trì lâu dài, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng. Ngành giáo dục nên tăng cường tập huấn kỹ năng tư vấn tâm lý, truyền thông và giáo dục kỹ năng sống cho giáo viên; chính quyền và các tổ chức xã hội cần đẩy mạnh truyền thông bằng cả tiếng phổ thông và tiếng dân tộc, hỗ trợ cơ sở vật chất, trang thiết bị và hoạt động ngoại khóa.

Khi gia đình – nhà trường – chính quyền phối hợp thường xuyên, kiên trì và có hệ thống, nhận thức cộng đồng mới dần thay đổi, góp phần kéo giảm tảo hôn và mở rộng cơ hội tương lai cho học sinh vùng cao.

Từ cổng trường vùng cao, cô giáo trẻ ngăn những cuộc hôn nhân sớm- Ảnh 14.

Theo cô Ngân, giáo viên vùng cao không chỉ dạy chữ, mà còn là người giữ lửa hy vọng và đồng hành cùng học trò. "Học sinh ít khi được động viên, nên trước khi giúp các em học tốt, thầy cô phải gieo niềm tin rằng các em có thể", cô nói.

Gần mười năm bền bỉ, những nỗ lực ấy đã cho thấy kết quả rõ rệt. Giai đoạn 2021–2024, điểm thi môn Toán vào lớp 10 của học sinh luôn cao hơn mặt bằng chung của tỉnh; nhiều em đỗ vào các trường uy tín như Trường PTDT Nội trú tỉnh Tuyên Quang, Trường Phổ thông Vùng Cao Việt Bắc, Trường PTDT Nội trú THCS & THPT Na Hang…

Hiệu trưởng Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Tiểu học & THCS Hồng Thái Phạm Văn Dũng đánh giá: "Cô Ngân là giáo viên trẻ tâm huyết, trách nhiệm, có chuyên môn vững vàng, luôn gương mẫu nên được đồng nghiệp, phụ huynh và nhân dân tin yêu. Các hoạt động của Câu lạc bộ Phòng chống tảo hôn do cô phụ trách đã giúp học sinh nhận thức rõ hậu quả, biết bảo vệ bản thân và tuyên truyền trong cộng đồng. Mô hình đã góp phần giảm tình trạng học sinh nghỉ học, bỏ học. Năm học tới, nhà trường sẽ phối hợp UBND xã chia sẻ kinh nghiệm, tập huấn để từng bước nhân rộng".

Từ học sinh đến cộng đồng, sự thay đổi dần được nhìn thấy. Học sinh Hoàng Thị Mai (dân tộc Mông, lớp 9) chia sẻ: "Chị họ em lấy chồng sớm, giờ rất khổ. Em muốn giúp các bạn không còn ý định kết hôn sớm, cố gắng học để không nghèo nữa. Sau khi tham gia Câu lạc bộ, em hiểu hơn về pháp luật, tác hại tảo hôn và biết tuyên truyền cho các bạn. Em đã nói chuyện với bố mẹ rằng em không muốn kết hôn sớm và được gia đình ủng hộ".

Không chỉ dừng ở nhận thức, sự thay đổi còn đến từ cảm xúc và hành vi. Lý Thị Xuân, người Mông, hiện học lớp 8 tại trường tâm sự: "Cô Ngân không chỉ là cô giáo mà còn như người mẹ thứ hai ở trường. Cô quan tâm bữa ăn, giấc ngủ, tận tình dạy dỗ và lắng nghe. Nhờ có cô, nhiều bạn đã thay đổi cách nghĩ, chăm học hơn. Cô luôn là tấm gương để chúng em noi theo".

Từ cổng trường vùng cao, cô giáo trẻ ngăn những cuộc hôn nhân sớm- Ảnh 15.
Từ cổng trường vùng cao, cô giáo trẻ ngăn những cuộc hôn nhân sớm- Ảnh 16.

Không chỉ dạy học trên lớp, cô Ngân phối hợp với cán bộ địa phương đến từng hộ gia đình để tuyên truyền và tư vấn về tác hại của tảo hôn, góp phần thay đổi nhận thức, nâng cao ý thức cho phụ huynh và học sinh.

Sự lan tỏa còn chạm đến cả phụ huynh. Ông Lý Văn Vừ (thôn Khuổi Phầy) - người từng để con nghỉ học chia sẻ: "Gia đình định cho con nghỉ học vì đông con, khó khăn. Khi con nghỉ, cô Ngân và thầy cô đến động viên, nói rằng học mới thoát nghèo. Nghe vậy, gia đình yên tâm cho cháu đi học tiếp. Từ ngày trở lại trường, cháu vui lắm, chăm học hơn. Gia đình cảm ơn cô Ngân và thầy cô rất nhiều".

Từ thực tiễn tại Hồng Thái có thể thấy rằng, khi giáo dục được tiếp cận bằng sự thấu hiểu văn hóa và phối hợp cộng đồng, tảo hôn không phải là số phận mà có thể ngăn chặn ngay từ nhà trường. Mô hình của cô Ngân là ví dụ mang tính thực chứng, phù hợp với bối cảnh vùng dân tộc thiểu số – nơi các biện pháp hành chính đơn thuần chưa đủ chạm tới nhận thức.

Thành công lớn nhất của cô Ngân không chỉ là giữ từng học sinh ở lại trường, mà là góp phần thay đổi tư duy: giáo dục phải đi trước, can thiệp sớm, tôn trọng văn hóa và đặt quyền lựa chọn của trẻ em ở vị trí trung tâm. Bởi giữ được một học sinh ở lại trường chính là giữ một cơ hội phát triển cho cả địa phương và đó là thước đo bền vững của giáo dục vùng cao.

Ý kiến của bạn