Để bảo đảm sự an toàn khi truyền dịch thay thế và truyền máu, các cơ sở y tế phải tuân thủ những quy định cần thiết.
Truyền dịch thay thế
Truyền dịch thay thế là liệu pháp điều trị đầu tay trong trường hợp giảm thể tích tuần hoàn, chúng có thể cứu sống người bệnh và tạo ra khoảng thời gian để khống chế chảy máu và chờ đợi lấy máu truyền nếu cần thiết. Truyền dịch thay thế được chỉ định thực hiện khi lượng dịch trong cơ thể mất đi do quá trình phẫu thuật, do sự chuyển dạ kéo dài hoặc do bệnh tật và cũng thực hiện để duy trì huyết áp trong khi chờ đợi truyền máu.
Dịch thay thế thường được sử dụng là các loại dung dịch gồm: dung dịch cao phân tử để duy trì khối lượng tuần hoàn; dung dịch nước muối đẳng trương NaCl 0,9% và dung dịch Ringer lactat là dung dịch được dùng thay thế máu để điều trị giảm thể tích tuần hoàn, trong trường hợp không có 2 loại dịch này thì có thể dùng dung dịch glucose 5% để thay thế. Trước khi sử dụng phải kiểm tra tình trạng của dịch truyền như kiểm tra sự nguyên vẹn của chai dịch hoặc túi đựng, kiểm tra hạn sử dụng, kiểm tra độ trong suốt của dung dịch. Việc theo dõi bệnh nhân cũng rất cần thiết theo quy định: Trước khi truyền dịch thay thế phải kiểm tra mạch, huyết áp, nhiệt độ, nhịp thở, lượng nước tiểu. Trong khi truyền dịch thay thế phải theo dõi mạch, huyết áp mỗi 15 phút một lần, theo dõi lượng nước tiểu và theo dõi những phản ứng có thể xảy ra như: sốt, rét run, sốc; trong trường hợp bị mất máu nặng, cần truyền dung dịch muối đẳng trương NaCl 0,9% hoặc dung dịch Ringer lactat với số lượng 1 lít trong vòng 20 phút để nâng huyết áp. Sau khi truyền dịch thay thế phải theo dõi thực trạng người bệnh tiếp tục ít nhất khoảng 1 giờ.
Truyền máu và truyền dịch thay thế cho người bệnh phải bảo đảm những quy định cần thiết
Truyền máu
Việc truyền máu quy định chỉ thực hiện ở cơ sở y tế từ tuyến bệnh viện quận, huyện, thị xã, thành phố trở lên và phải có bác sĩ chỉ định theo y lệnh. Chỉ định truyền máu được áp dụng đối với những trường hợp người bị mất máu nhiều trong bệnh lý sản phụ khoa làm ảnh hưởng đến tình trạng huyết động; trường hợp bị thiếu máu nặng, đặc biệt các trường hợp có thai trong 3 tháng cuối của thai kỳ thì nên truyền hồng cầu lắng nếu có.
Nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất là chỉ truyền máu và sản phẩm của máu cho những người bệnh khi bị mất máu nhiều để nhanh chóng bồi phụ lượng máu đã mất, nên truyền máu cùng nhóm và truyền máu theo đúng hướng dẫn chung của quy định quốc gia, cố gắng chỉ nên truyền những thành phần máu mà người bệnh cần như hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu... nếu có. Nơi nào có ngân hàng máu thì sử dụng máu của ngân hàng. Nơi nào không có ngân hàng máu thì phải tuân thủ nguyên tắc sàng lọc máu theo quy định của quốc gia như: tất cả nguồn máu của người cho máu phải bắt buộc sàng lọc các mầm bệnh HIV-1, HIV-2, viêm gan B, viêm gan C, giang mai, sốt rét để loại trừ. Bác sĩ điều trì chỉ cho thực hiện y lệnh truyền máu trong những trường hợp cần thiết để điều trị, phải hiểu biết những nguy cơ do truyền máu có thể xảy ra, phải theo dõi chặt chẽ trong quá trình truyền máu để phát hiện sớm những phản ứng tai biến có thể xảy ra.
Thực tế khi truyền máu có thể có những tai biến xảy ra, vì vậy trước khi chỉ định truyền máu hoặc sản phẩm của máu cho người phụ nữ phải cân nhắc kỹ các nguy cơ như: nguy cơ trước mắt với dấu hiệu choáng, rét run, nổi mẩn, phù phổi cấp...; nguy cơ lâu dài có khả năng làm lây truyền các tác nhân gây bệnh như HIV, viêm gan B, viêm gan C, giang mai, sốt rét cho người tiếp nhận máu truyền.
Quy trình truyền máu phải tuân thủ các bước quy định như chuẩn bị, theo dõi, phát hiện những phản ứng có thể xảy ra khi truyền máu và cách xử trí. Trước khi truyền máu phải chuẩn bị thực hiện việc đo mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở; xác định lượng máu cần phải bù; kiểm tra hạn sử dụng của máu; thử phản ứng chéo tại giường bệnh; ấn định lưu lượng truyền với số giọt truyền mỗi phút. Trong khi truyền máu phải theo dõi toàn trạng người bệnh chặt chẽ, theo dõi biến đổi màu da và thân nhiệt, đo huyết áp và mạch cứ mỗi 15 phút một lần; sau khi truyền máu xong phải theo dõi tiếp tục ít nhất 2 giờ; cần ghi lại thời gian bắt đầu truyền máu, thời gian hoàn tất việc truyền máu, thể tích máu đã truyền và các dịch truyền thay thế khác. Cần phát hiện những phản ứng có thể xảy ra khi truyền máu để có biện pháp xử trí kịp thời như: có phản ứng đỏ da, ngứa hoặc choáng phản vệ phải ngừng truyền máu ngay, giữ tĩnh mạch bằng cách truyền dịch như dung dịch nước muối đẳng trương NaCl 0,9% hoặc dung dịch Ringer lactat đồng thời tìm người hỗ trợ. Nếu phản ứng nhẹ cho uống thuốc promethazin 10mg. Nếu bị sốc phản vệ, phải đặt người bệnh đầu thấp, cho thở oxygen, hút đờm dãi…; dùng thuốc adrenalin pha loãng 1% với liều lượng 0,1ml trong 10ml dung dịch nước muối đẳng trương NaCl 0,9% hoặc dung dịch Ringer lactat tiêm tĩnh mạch chậm; dùng thêm thuốc promethazin 10mg tiêm tĩnh mạch, thuốc depersolon 30 - 90mg tương ứng 1 - 3 ống hoặc hydrocortison 100 mg với 5 lọ tiêm tĩnh mạch chậm hay truyền nhỏ giọt tĩnh mạch; có thể tiêm nhắc lại khi có chỉ định. Nếu có khó thở do co thắt phế quản, dùng aminophylin 250mg pha trong 10ml dung dịch nước muối đẳng trương NaCl 0,9% hoặc dung dịch Ringer lactat tiêm tĩnh mạch chậm. Cần theo dõi chức năng tim, thận, phổi. Có thể chuyển ngay người bệnh lên tuyến trên khi cần thiết. Lưu ý phải kiểm tra lại mẫu máu ngay sau khi phản ứng xảy ra. Nếu nghi ngờ người bệnh bị sốc nhiễm khuẩn do đơn vị máu bị nhiễm khuẩn thì phải ngừng truyền máu ngay và cấy máu trong bịch máu truyền để xác định.
Trong các bệnh lý về sản phụ khoa, một số trường hợp cần thiết người bệnh được bác sĩ chỉ định xử trí can thiệp bằng biện pháp truyền dịch thay thế và truyền máu cũng như các sản phẩm từ máu để khắc phục tình trạng nguy kịch do giảm thể tích tuần hoàn, bị mất máu nhiều và thiếu máu nặng nhằm cứu sống bệnh nhân. Tuy vậy, khi sử dụng các loại dịch truyền thay thế, máu hay các sản phẩm từ máu thì người bệnh có thể bị những phản ứng tai biến xảy ra, do đó cần phải tiên lượng để có chỉ định phù hợp; phải theo dõi chặt chẽ trong quá trình truyền để phát hiện những dấu hiệu phản ứng bất thường nhằm xử trí can thiệp kịp thời, hạn chế sốc phản vệ làm ảnh hưởng đến tính mạng bệnh nhân.