Đấy chính là sức sống kỳ lạ mà cuộc chiến tranh nhân dân có một không hai ở Việt Nam đem lại. Đối với lớp trẻ hôm nay, nó ập vào xâm chiếm tâm hồn. Đối với người đã từng trải qua, nó cứ vương vấn đâu đó trong ký ức dài thương nhớ.
Dường như tôi vẫn còn giữ nguyên cái cảm giác xót xa của buổi bình minh đầu tiên ở Trường Sơn. Sau ngày đầu tiên hành quân xuyên Trường Sơn, buổi tối chúng tôi dừng nghỉ lại ở một tổ bảo vệ đường dây thông tin. Căn nhà hầm nửa nổi nửa chìm đêm ấy ngập tràn tiếng cười, tiếng hát. Đối với tôi - một tân binh thuộc dòng “lính sinh viên” thì việc cùng chung sống giữa rừng với những người lính nông thôn ở tuổi em trai mình là điều bỡ ngỡ thú vị. Biết tôi đã có người yêu, mấy chàng lính trẻ ráo riết “truy cứu” tôi về cái vụ “quan hệ” đó. Những cặp mắt tròn xoe im lặng ngời lên đầy khao khát của thanh xuân. Họ đến với Trường Sơn bằng tuổi xuân hơ hớ, trinh trắng, chưa học qua cấp 2, chưa kịp một lần yêu. Sự ra đi của họ ngay đầu tiên đã là sự dâng hiến và hy sinh rồi.
Tranh Chu Thảo.
Đêm ấy, một chàng lính trẻ nằm ôm chặt lấy tôi. Ở Trường Sơn, những người lính không ôm nhau ngủ để truyền hơi ấm sang nhau thì còn biết làm gì để chống lại cái buốt lạnh của ngàn xanh. Nhưng sự thật của chiến tranh còn trần trụi đến không ngờ. Tôi đâu biết khi tảng sáng, tôi đang ngủ thiếp đi thì người lính trẻ đã lên đường băng qua sông để nối lại một đoạn dây bọc bị đứt. Một quả mìn vướng do máy bay Mỹ thả khắp Trường Sơn đã cướp đi mạng sống của người lính trẻ. Đấy là một bình minh rớm máu. Tôi thực sự không khóc nổi vì vẫn đang cảm thấy cái hơi ấm mà chàng lính trẻ truyền sang mình còn hôi hổi.
Nhà văn Ngô Thảo - chàng cựu binh pháo mặt đất ở Trường Sơn nói với tôi rằng tác phẩm văn học đầu tiên của anh là bài điếu văn về một đồng đội hy sinh. Còn tôi, tác phẩm âm nhạc đầu tiên ở Trường Sơn của tôi là bài hát viết về sự hy sinh của người lính trẻ này. Bài Người đồng chí ấy đã được thu thanh tại Đài Tiếng nói Việt Nam. Có lẽ lý do để nhiều người lính Trường Sơn trở thành nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ và nhà nhiếp ảnh cũng thường bắt nguồn từ một thực tế có sức ám ảnh mạnh mẽ như thế.
Ở Trường Sơn, chia cho nhau hớp nước, bẻ đôi cho nhau nắm cơm, mang giùm nhau đồ đạc, cõng nhau khi bạn sốt, dìu nhau qua mưa lũ... là chuyện thường tình, hồn nhiên không chút đắn đo. Tình cảm ấy có sức lan tỏa mạnh mẽ khiến Trường Sơn trở thành một địa danh nổi tiếng toàn cầu. Một nhà điện ảnh Pháp trẻ tuổi đã có kỳ vọng làm một cuốn phim về các cựu binh Trường Sơn. Anh ấy nói rằng Trường Sơn thời chiến tranh là một thời sống phi thường của người Việt Nam. Trường Sơn ám ảnh những con người từng dấn thân ở đó như một căn bệnh gọi là “Bệnh Trường Sơn”. Cố nhiếp ảnh gia Trọng Thanh, cố họa sĩ Hoàng Đình Tài, họa sĩ Đức Dụ, Chu Thảo... hay cả tôi là những người mắc căn bệnh như thế. Suốt bao nhiêu năm vẫn cứ một đề tài Trường Sơn mà không thấy chán, ngỡ như mình trở thành một phần máu thịt trong cơ thể Trường Sơn. Lúc nào cũng thấy nặng lòng, lúc nào cũng thấy thương nhớ. Căn bệnh này cũng có thể lây nhiễm sang những người có ham muốn tìm hiểu về Trường Sơn. Chả phải ai xa lạ mà chính là họa sĩ Lê Thiết Cương - bạn thân của tôi. Được VCCA tín nhiệm trao cho trọng trách tổ chức cuộc triển lãm “Ký ức Trường Sơn” nhân kỷ niệm 60 năm ngày sinh con đường huyền thoại (1959-1960), anh đọc sách, tìm tranh, tìm ảnh, tìm tư liệu say mê như “tẩu hỏa nhập ma”, như bị nhiễm “bệnh Trường Sơn” như chúng tôi. Nhưng chính vì sự say mê ấy đã đem lại cho chúng ta một cuốn sách quý hiếm gồm nhiều ký họa Trường Sơn, một triển lãm đưa Trường Sơn lên tầm vóc thế giới. Một Trường Sơn - dài thương nhớ.
Triển lãm kéo dài hết ngày 26/5/2019 tại B1, R3, Royal City, 72A Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.