Trong bối cảnh nhu cầu sử dụng dược liệu ngày càng gia tăng cả trong nước và xuất khẩu, việc phát triển các mô hình liên kết để hình thành chuỗi giá trị bền vững đang trở thành hướng đi tất yếu.
Thay vì sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, nhiều địa phương đã đưa cây dược liệu vào quy hoạch vùng nguyên liệu, xây dựng thương hiệu, chế biến sâu và kết nối thị trường. Đây cũng là cách giúp đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) khai thác tiềm năng bản địa, phát triển kinh tế song hành với bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Chuỗi giá trị dược liệu – lời giải cho phát triển bền vững
Từ lâu, cây dược liệu đã gắn bó mật thiết với đời sống của nhiều cộng đồng, đặc biệt là người dân miền núi. Việt Nam hiện có hơn 5.000 loài thực vật và nấm có công dụng làm thuốc, trong đó khoảng 850 loài đã được ghi nhận và đưa vào sử dụng. Tuy nhiên, trong nhiều năm, việc khai thác dược liệu vẫn chủ yếu theo hướng tự phát, chưa có quy hoạch đồng bộ, thiếu liên kết trong khâu trồng, chế biến và tiêu thụ, dẫn đến hiệu quả kinh tế chưa cao.
Chính vì vậy, việc hình thành chuỗi giá trị – gắn kết giữa người dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và cơ quan quản lý – được xem là bước ngoặt quan trọng. Khi tham gia chuỗi, nông dân có đầu ra ổn định, hợp tác xã đóng vai trò cầu nối kỹ thuật, còn doanh nghiệp chịu trách nhiệm chế biến, phân phối, xây dựng thương hiệu. Nhờ đó, giá trị của dược liệu không chỉ dừng lại ở nguyên liệu thô mà được nâng tầm thành hàng hóa có chất lượng, đáp ứng chuẩn trong nước và quốc tế.

Trồng dược liệu dưới tán rừng – mắt xích đầu tiên trong chuỗi giá trị
Dự án 3: Đòn bẩy phát triển vùng dược liệu
Triển khai Dự án 3 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi (Chương trình MTQG 1719), nhiều địa phương đã có cơ hội phát triển cây dược liệu một cách bài bản.
Chỉ tính riêng giai đoạn thí điểm, dự án đã triển khai tại 22 huyện thuộc 21 tỉnh, với 18 dự án vùng trồng dược liệu quý và 4 Trung tâm nhân giống ứng dụng công nghệ cao tại miền núi phía Bắc, miền Trung – Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Mỗi vùng dự án có mức đầu tư khoảng 65 tỷ đồng.
Nguồn lực này được sử dụng để hỗ trợ giống, vật tư, bao bì, nhãn mác, xây dựng thương hiệu sản phẩm. Đây là bước đệm quan trọng để các địa phương biến tiềm năng thành lợi thế, đưa cây dược liệu trở thành ngành hàng có giá trị cao, góp phần nâng cao thu nhập và ổn định đời sống cho đồng bào.
Sơn La: Dược liệu phủ xanh đất trống, tạo sinh kế
Huyện Sốp Cộp (Sơn La) là một trong những địa phương điển hình. Từ vốn hỗ trợ của Dự án 3, nhiều diện tích đất trống, đồi núi trọc đã được phủ xanh bằng cây dược liệu đặc hữu như đẳng sâm, khôi nhung, sa nhân.
Hiện huyện có hơn 60ha quế, 16ha sa nhân, 20ha gừng, 4ha hà thủ ô và nhiều diện tích cây cát sâm, khôi nhung, đẳng sâm. Nhiều hộ đã bắt đầu thu hoạch, mang lại nguồn thu đáng kể.
Không chỉ đem lại giá trị kinh tế, việc trồng dược liệu dưới tán rừng còn góp phần bảo vệ rừng đầu nguồn, cải thiện môi trường sinh thái, tạo sự cân bằng bền vững giữa phát triển và bảo tồn.

Nguồn vốn Dự án 3 thuộc Chương trình MTQG 1719 đang trợ lực kịp thời để Sơn La tạo đột phá phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp
Lào Cai: Trọng điểm quốc gia về dược liệu
Lào Cai hiện được quy hoạch là một trong 8 vùng trọng điểm dược liệu của cả nước. Với khoảng 850 loài cây thuốc, trong đó 70 loài quý hiếm cần bảo tồn, tỉnh này đang sở hữu kho tàng dược liệu phong phú.
Toàn tỉnh có 3.550ha cây dược liệu, trong đó 210ha đạt chuẩn GACP (Thực hành tốt nuôi trồng, thu hái dược liệu). Thu nhập bình quân từ dược liệu đạt 120 – 150 triệu đồng/ha, cao gấp nhiều lần so với cây trồng truyền thống.

Cây dược liệu là một trong số cây trồng hàng hóa chủ lực của Lào Cai
Bắc Giang: Từ nguyên liệu đến sản phẩm OCOP
Theo báo cáo Sở Nông nghiệp và Môi trường, đến nay toàn tỉnh Bắc Giang hiện có 444 sản phẩm đạt OCOP từ 3 sao trở lên. Trong đó có 1 sản phẩm 5 sao cấp quốc gia, 21 sản phẩm 4 sao và 422 sản phẩm 3 sao.
Dự kiến đến hết năm 2025, tỉnh Bắc Giang có khoảng 500 sản phẩm OCOP. Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bắc Giang, hầu hết các sản phẩm OCOP đều có mẫu mã bao bì đẹp mắt, chất lượng đảm bảo, được người tiêu dùng tin tưởng và ngày càng chiếm lĩnh thị trường.
Đáng chú ý, một phần không nhỏ trong số các sản phẩm OCOP này được chế biến sâu từ cây dược liệu bản địa, như trà đinh lăng, sâm nam núi Dành, hay cao dược liệu các loại.

Vùng trồng sâm nam núi Dành của HTX Sâm núi Dành Đức Hạnh ở xã Liên Chung, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang
Nhận diện rõ lợi thế và tiềm năng từ cây dược liệu, tỉnh Bắc Giang đã và đang triển khai nhiều cơ chế, chính sách thiết thực để hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) và người dân đầu tư phát triển.
Toàn tỉnh Bắc Giang hiện có gần 670 ha cây dược liệu lâu năm và hằng năm, tập trung chủ yếu tại các huyện Sơn Động, Lục Nam, Yên Thế và Tân Yên.
Giá trị gia tăng từ chế biến sâu và xây dựng thương hiệu
Để cây dược liệu thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, cần tiếp tục đẩy mạnh liên kết “bốn nhà”: Nhà nước – nhà nông – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp.
Trong đó, Nhà nước giữ vai trò định hướng và hỗ trợ hạ tầng; nông dân trực tiếp sản xuất; nhà khoa học cung cấp giống, kỹ thuật; doanh nghiệp đảm bảo chế biến và tiêu thụ.
Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu, đẩy mạnh quảng bá, xúc tiến thương mại để đưa dược liệu Việt vươn xa. Việc kết hợp phát triển dược liệu với du lịch cộn