Nay, thôn Đồng Đò thuộc về địa phận hành chính của xã Tân Nghĩa, huyện Di Linh. Tôi đã phải vắt dòng lịch sử, tìm về những ký ức rời rạc, qua câu chuyện của một người trong cuộc, nhạc sĩ Đình Nghĩ, Chi hội trưởng Chi hội Âm nhạc Việt Nam tại Lâm Đồng, Trưởng đoàn Ca múa nhạc dân tộc Lâm Đồng, để lần giở nguồn cơn cháy khát giúp Trịnh Công Sơn làm nên Tình khúc ơ-bai.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua nét vẽ của họa sĩ Giang Phong.
Tôi đã làm một chuyến xe gắn máy vượt hơn 110 cây số từ Đà Lạt về Bảo Lộc, nơi từng lưu dấu chân Trịnh Công Sơn trong vai trò thầy giáo dạy tiểu học, ngồi ẩn mình ở một quán vắng, nghêu ngao vài ba câu nhạc và vu vơ nhớ Trịnh. Cùng lúc, từ chiếc computer của quán, giọng hát Khánh Ly váng vất liêu trai nhả rõ từng câu nhạc: “Tôi đi bằng nhịp điệu một hai ba bốn năm/ Em đi bằng nhịp điệu sáu bảy tám chín mười/ Ta đi bằng nhịp điệu nhịp điệu không giống nhau/ Ta đi bằng nhịp điệu nhịp điệu sao khác màu” (Tình khúc ơ-bai) trong khê nồng ma mị.
Tình khúc ơ-bai (“ơ-bai” trong ngôn ngữ K’Ho phải đọc là “ơ-vai” thì mới đúng) được Trịnh Công Sơn viết ở giọng đô trưởng (C major), điệu valse, gồm hai câu nhạc. Câu nhạc đầu, Trịnh Công Sơn sử dụng nhịp 3/4, đến câu nhạc sau, nhạc sĩ chuyển tiết tấu sang 2/4, làm cho câu nhạc trở nên dồn dập, sống động. Giai âm chủ đạo của Tình khúc ơ-bai là giai âm ngũ cung. Tuy vậy, Trịnh Công Sơn có biến tấu một đôi nốt nhạc, tạo sự khác biệt, nhằm làm cho giai điệu bài hát trở nên mênh mang hơn. “Mặc dù ban đầu Trịnh Công Sơn viết Tình khúc ơ-bai theo giọng đô trưởng (C major), nhưng khi qua giọng hát Khánh Ly, thì chuyển xuống thành mi trưởng (E major). Còn nếu như Tình khúc ơ-bai được hát bởi giọng Hồng Nhung, lại chuyển đổi thành sol trưởng (G major)”, nhạc sĩ Đình Nghĩ trao đổi qua điện thoại.
Đấy là cách phân tích tác phẩm âm nhạc theo lối phổ thông kinh viện, mà đối với những ai đã từng theo học ngành âm nhạc, không quá khó để chỉ ra những điều trên. Còn tôi, tôi thích nhìn nhận Tình khúc ơ-bai qua một lăng kính khác, lăng kính của đời thường, gắn với chuyến đi thực tế của Trịnh Công Sơn trên đất Lâm Đồng.
Những thiếu nữ người dân tộc K’Ho ngày nay.
Theo nhạc sĩ Đình Nghĩ, khoảng tháng 3 năm 1987, bà Cao Thị Quế Hương, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Lâm Đồng lúc bấy giờ, dẫn đoàn nhạc sĩ đi thực tế tại các huyện Đức Trọng, Di Linh, Bảo Lộc và TP. Đà Lạt. Trong chuyến đi này, phía Sài Gòn có các nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn, Hoàng Hiệp, Miên Đức Thắng và Trần Long Ẩn; phía Lâm Đồng có Mạnh Đạt, Đình Nghĩ, Sóng Trà, Duy Thanh và Phan Bá Chức. Khi đến thôn Đồng Đò, đoàn có ghé thăm gia đình chị Ka Nheo, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Đinh Lạc. Chị Ka Nheo có đem rượu cần mời khách. Các già làng và các sơn nữ trong thôn cũng đến. Mọi người ngồi quanh chóe rượu. Cần rượu cứ thế mềm môi vít cong, khách trước rồi đến chủ, từ chủ lại qua khách. Men rượu cần càng nồng, tiếng hát lại càng vang xa, xa mãi. Trịnh Công Sơn và các nhạc sĩ đang ngồi quây quần cùng bà con bên trong ngôi nhà dài (hìu rọt), bỗng một cô gái K’Ho xin hộp quẹt ga (bật lửa) của Trịnh Công Sơn. Lúc ấy, Trịnh Công Sơn đùa: “Vậy thì theo anh về Sài Gòn nhé!”. Em gái K’Ho ngượng nghịu, bật thốt: “Ơ-bai!”. Chị Ka Nheo giải thích: “Ơ-bai” trong tiếng K’Ho có nghĩa là “Không chịu!”.
“Sau chuyến đi thực tế đó, Trịnh Công Sơn có bài Tình khúc ơ-bai”, nhạc sĩ Đình Nghĩ cho biết.
Cũng liên quan đến Tình khúc ơ-bai, ngày 17 tháng 11 năm 1988, từ TP. Hồ Chí Minh, Trịnh Công Sơn có mấy lời thư gửi lên Đà Lạt cho bà Cao Thị Quế Hương, người trực tiếp đưa các nhạc sĩ đi thực tế. Nội dung bức thư đã được bà Cao Thị Quế Hương công bố trên tập san Khát Vọng do Nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành, tôi xin chép lại: “Quế Hương thân mến! Gửi lên Quế Hương 3 bài hát đã thất lạc. Bài mới chưa viết được vì bận rất nhiều công việc cộng thêm bị đau suốt cả tháng nay vì cụp xương sống không di chuyển được. Về lời bài hát ơ-bai, nếu ngại người K’Ho hiểu lầm, thì Quế Hương nên cắt nghĩa cho họ. Chữ “khác màu” không có nghĩa là màu da mà chỉ là màu sắc của hòa âm cuộc sống. Và chính đoạn kết ơ-bai chính là sự phủ nhận sự khác biệt trên. Chúc Quế Hương vui và khỏe. Thân ái”. Ký tên Trịnh Công Sơn.
Ở phần tái bút, Trịnh Công Sơn viết: “Gửi mấy cái ảnh chụp ở lần gặp ở buôn người dân tộc K’Ho”.
Cứ theo cách giải nghĩa của Trịnh Công Sơn, “đoạn kết ơ-bai chính là sự phủ nhận sự khác biệt trên”, tức màu sắc của hòa âm cuộc sống, rồi thử đem ra đối chiếu với phần dịch nghĩa từ “ơ-bai” của bà Ka Nheo, tôi nhận thấy không được ổn cho lắm. “Ơ-bai” dịch thành “không chịu” không những không được chuẩn xác mà còn chẳng ăn nhập gì với “sự phủ nhận sự khác biệt trên” cả. Vậy, “ơ-bai” trong tiếng K’Ho có nghĩa là gì?
Ka Triều, người K’Ho, trú tại bon Tràng Woạt, xã Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng nói: “Dịch chữ “ơ-bai” trong ngôn ngữ K’Ho thành “không chịu” trong tiếng Việt là chưa thật sự chính xác. “Không chịu” trong tiếng Việt nếu chuyển ngữ sang tiếng K’Ho thì phải là “ơ gơ dăn”, “không thích” là “ơ gơboh”. Còn nghĩa của từ “ơ-bai” lại là “không đâu!”.
Đến đây, sự giải nghĩa của Trịnh Công Sơn đã trở nên sáng rõ: “Sông cạn đá mòn, sông cạn đá mòn/ Làm sao ta gặp, làm sao ta gặp, được nhau/ Ơ-bai à... á.../ Ơ-bai à... á.../ Ơ-bai à... á.../ Ơ-bai à... á...!”.
“Ngày ấy, anh Sơn đến đâu cũng uống rượu, không bao giờ uống bia. Không có rượu ngoại (Tây), anh uống rượu đế (quốc lủi). Trong đoàn chỉ có mỗi Đình Nghĩ chịu đựng được tính khí này của anh và tiếp chuyện cùng anh có khi từ đêm cho đến sáng”, nhạc sĩ Đình Nghĩ nói thêm.
Đồng Đò như quán trọ ven đường mà Trịnh Công Sơn đã có lần buồn chân ghé chơi rồi để lại Tình khúc ơ-bai trên hành trình ca thơ của mình. Câu nói bật thốt của em gái K’Ho ngày nào cũng chỉ là những gợi mở để Trịnh Công Sơn ưu tư về sự hòa âm cuộc sống. Tôi lại bắt chước Trịnh, cưỡi xe gắn máy nhắm hướng Bảo Lộc - Di Linh thẳng tiến đến thôn Đồng Đò. Có điều tôi đến đây không phải để sáng tác một Tình khúc ơ-bai mới. Tôi đến Đồng Đò để được nghe tiếng chân trần lên non và đứng một mình lặng ngắm dáng ai nhạt nhòa nơi nẻo vắng.