Ngày nay, việc chẩn đoán zona trên lâm sàng không còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, cần có sự can thiệp điều trị một cách kịp thời và đúng đắn của các bác sĩ để có thể hạn chế tối đa những tổn thương cũng như biến chứng mà bệnh nhân có thể phải chịu đựng lâu dài về sau này.
Dấu hiệu nhận biết
Bệnh zona và bệnh đậu mùa đã từng được xem là các chứng rối loạn riêng biệt. Cả 2 chứng bệnh này đều do một loại virus họ Herpes gây ra, được gọi là virus Varicella-zoster (Varicella-zoster virus-VZV). Thuật ngữ Herpes bắt nguồn từ chữ Hy Lạp “herpein”, có nghĩa là “bò, trườn”, ám chỉ kiểu di chuyển đặc trưng của các mụn nước trên da.
Trong thời kỳ đầu của zona, bệnh nhân có thể nhức đầu, sợ ánh sáng, khó ở, nhưng hiếm khi có sốt. Bệnh khởi đầu với các cảm giác da bất thường khu trú, bao quát từ ngứa hoặc đau nhói đến đau dữ dội, có trước các tổn thương da từ 1-5 ngày, cơn đau với cường độ khác nhau xảy ra ở hầu hết các bệnh nhân bị mắc zona. Một phát ban hồng hay dát sẩn tiến triển thành các cụm mụn nước từ 3-5 ngày sau. Tổn thương thường lành sau 2 - 4 tuần, để lại sẹo với những thay đổi màu da vĩnh viễn. Với các đặc điểm tổn thương trên da của bệnh zona đủ để giúp chẩn đoán chính xác trên lâm sàng. Tuy vậy, vị trí hoặc hình dạng và các tổn thương ngoài da có thể không điển hình, đặc biệt đối với những bệnh nhân có suy giảm miễn dịch. Việc phát hiện và điều trị sớm sẽ giúp rất nhiều cho người mắc bệnh, giảm thiểu các triệu chứng của bệnh, đặc biệt sẽ hạn chế được biến chứng đáng sợ nhất của zona, đó là đau thần kinh sau zona (là tình trạng đau nhức kéo dài trên 30 ngày từ sau khi bị zona).
Dùng thuốc kháng virus sớm sẽ giúp giảm biến chứng của bệnh zona.
Liệu pháp kháng virus trong điều trị zona
Hiện nay có 3 dược chất được chấp thuận và sử dụng trong điều trị zona, đó là acyclovir, valacyclovir và famciclovir. Liệu pháp kháng virus đường uống được khuyến nghị sử dụng điều trị zona ở người lớn tuổi có chức năng miễn dịch bình thường và chức năng thận bình thường.
Acyclovir sẽ làm rút ngắn thời gian bài xuất virus, làm ngưng sự hình thành tổn thương mới nhanh chóng hơn, đẩy nhanh tốc độ liền sẹo, và giảm độ nặng của cơn đau cấp. Valacyclovir là một tiền chất của acyclovir, sản sinh nồng độ acyclovir huyết thanh cao gấp 3-5 lần nồng độ đạt được nếu dùng acyclovir. Valacyclovir và acyclovir cùng mang lại tiến độ lành da như nhau. Tuy nhiên vancyclovir rút ngắn một cách có ý nghĩa thời gian trung bình khỏi cơn đau có liên quan đến zona.
Famciclovir là một tiền chất của penciclovir, có kết quả tốt trong việc làm giảm thời gian bài xuất virus, hạn chế hình thành tổn thương mới và đẩy nhanh việc liền sẹo.
Cả 3 thuốc này đều khá an toàn và dung nạp tốt, không có chống chỉ định nào đối với việc sử dụng các thuốc này, mặc dù cần phải điều chỉnh liều dùng ở những bệnh nhân bị suy thận. Tuy nhiên, hiện tại chưa có một thuốc nào trong 3 thuốc trên được chấp nhận cho sử dụng ở phụ nữ có thai.
Việc sử dụng sớm liệu pháp kháng virus để điều trị zona sẽ giúp làm giảm những biến chứng nguy hiểm có thể xuất hiện sau này, đặc biệt đối với những bệnh nhân có khả năng mắc biến chứng cao như người cao tuổi, người bị zona mắt và bệnh nhân bị tổn hại miễn dịch. Vẫn có ý kiến cho rằng liệu pháp kháng virus không bắt buộc ở những bệnh nhân trẻ hơn bị zona không biến chứng, mặc dù liệu pháp này có lợi ích và nguy cơ tai biến rất thấp. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nên sử dụng thuốc kháng virus càng sớm thì sẽ càng tốt, để có kết quả tốt nhất nên sử dụng trong vòng 72 giờ sau khi khởi phát các tổn thương.
Khi mắc zona, người bệnh nên đi khám cẩn thận tại các cơ sở y tế và phải tuân thủ nghiêm ngặt quá trình điều trị của bác sĩ. Tránh trường hợp điều trị theo lối truyền miệng, tự ý bôi, đắp các chất lạ lên vết thương... sẽ có thể mang lại những hậu quả vô cùng nguy hiểm.