Nguyên nhân của đục TTT bẩm sinh
Đục TTT̉ bẩm sinh xảy ra ở trẻ sơ sinh là do nhiều nguyên nhân bao gồm: các xu hướng di truyền, nhiễm trùng, các vấn đề chuyển hóa, đái tháo đường, chấn thương, viêm và các phản ứng thuốc. Đục TTT cũng có thể gặp ở trẻ sơ sinh khi người mẹ mang thai mắc các bệnh nhiễm trùng như sởi, Rubella, thủy đậu, Cytomegalovirus (CMV), Herpes simplex, Herpes zona, bệnh bại liệt trẻ em, bệnh cúm, bệnh do virut Epstein-Barr, giang mai và Toxoplasmosis.
Trong đục TTT̉ bẩm sinh, có tới 33% trường hợp bị bỏ sót lúc mới đẻ. Trong đục TTT̉ bẩm sinh do di truyền và một số các dạng khác, các bất thường có thể xảy ra trong sự tạo ra các proteins cần thiết để duy trì sự trong suốt của TTT̉.
Cách phát hiện sớm
Triệu chứng sớm của đục TTT bao gồm: Trẻ thường quờ quạng, nếu lớn hơn có thể đo thị lực để xác định mức độ mờ mắt. Thị lực giảm tỷ lệ thuận với mức độ đục TTT.
Lóa mắt: Đục TTT bắt đầu thường gây lóa mắt, gây khó chịu cho người bệnh. Sự khó chịu này đặc biệt xảy ra ở hình thái đục TTT dưới bao sau.
Mắt nhìn gần tốt hơn so với trước đó: Mắt bị đục TTT ban đầu có xu hướng cận thị hóa, do vậy khả năng nhìn gần của mắt tốt lên.
Lác mắt: Trong nhiều trường hợp, đây là một trong các lý do khiến bệnh nhi đi khám bệnh, nguyên nhân là do đục TTT, mắt đó bị nhược thị và lác. Bệnh nhi cần được khám chuyên khoa mắt để xác định chẩn đoán và làm các xét nghiệm tìm nguyên nhân, các xét nghiệm chuẩn bị cho cuộc mổ và các xét nghiệm đánh giá chức năng của mắt như đo thị lực, nhãn áp, điện võng mạc. Siêu âm mắt là một xét nghiệm không thể thiếu giúp chẩn đoán và tiên lượng kết quả phẫu thuật.
Khoảng 0,4% số trẻ sinh ra bị đục TTT bẩm sinh hay sớm xuất hiện.
Các biến chứng
Các biến chứng thường gặp ở trẻ đã lấy TTT rất khác biệt với người lớn. Bong võng mạc, phù hoàng điểm và bất thường ở giác mạc thường rất hiếm gặp ở trẻ em. Tần suất của nhiễm trùng hậu phẫu và xuất huyết có vẻ như tương đương với người lớn. Ở trẻ em, tật lác mắt rất thường gặp đi kèm với đục TTT. Nguy cơ glocom tăng lên ở trẻ phẫu thuật càng nhỏ và glocom thường xảy ra sau phẫu thuật lấy TTT nhiều năm.
Viêm màng bồ đào: Viêm màng bồ đào sau phẫu thuật là biến chứng thường gặp do phản ứng mô mạnh hơn ở người lớn. Điều này có thể dẫn đến hình thành dính mống sau gây nguy cơ trít đồng tử, mống phồng và hậu quả là glocom góc đóng thứ phát. Ở mắt trẻ em đã được đặt kính nội nhãn, sự hình thành dính mống sau và phản ứng viêm có thể làm tăng tỷ lệ tăng sinh của tế bào biểu mô TTT phía trước và sau.
Đục bao sau: Hầu như mọi trẻ không cắt mở bao sau về sau đều bị biến chứng này. Các phương pháp điều trị có thể là: mở bao sau với laser Nd:YAG thường khó ở trẻ em và tỷ lệ thất bại cao, đòi hỏi phải mổ cắt bao sau và phần trước dịch kính bằng dụng cụ cắt dịch kính.
Glocom: Glocom sau phẫu thuật đục TTT ở trẻ nhỏ được ghi nhận là gặp rất nhiều. Glocom xảy ra sớm sau phẫu thuật thường do nghẽn đồng tử hoặc dính mống trước, trong khi đó thì glocom góc mở xảy ra muộn hơn, đòi hỏi phải theo dõi hậu phẫu lâu dài ở trẻ. Việc cắt mống chu biên có thể giúp giảm tình trạng glocom do nghẽn đồng tử ở mắt có đặt thấu kính nội nhãn.
Bong võng mạc: Hiếm gặp nhưng là một biến chứng đe dọa thị lực nghiêm trọng sau phẫu thuật lấy TTT ở trẻ em. Tần suất của bong võng mạc sau phẫu thuật TTT vào khoảng 1 - 1,5%. Đây là một biến chứng muộn của phẫu thuật TTT ở trẻ em. Các yếu tố nguy cơ quan trọng của biến chứng bong võng mạc sau phẫu thuật TTT là cận thị nặng và thực hiện phẫu thuật nhiều lần.
Lời khuyên của thầy thuốc
Phẫu thuật lấy TTT đục và thay TTT nhân tạo là phẫu thuật thông thường và thường có kết quả tốt. Chính vì vậy, nếu có tiền sử gia đình về rối loạn di truyền có thể gây đục TTT, nên đến tư vấn chuyên gia về di truyền.
Sau mổ, bệnh nhân cần được khám và theo dõi định kỳ. Nếu có nhược thị, cần điều trị kịp thời (một trong các phương pháp hay dùng là bịt mắt lành để mắt nhược thị được tập luyện). Phương pháp điều trị sẽ có nhiều kết quả nếu bệnh nhân được điều trị sớm, sự kiên trì và sự phối hợp của gia đình.