Biện pháp tránh thai truyền thống, hay còn gọi là tránh thai tự nhiên, là biện pháp không cần dụng cụ, không dùng thuốc men hay thủ thuật nào để ngăn cản sự thụ tinh.
Biện pháp tránh thai truyền thống được áp dụng cho tất cả các đối tượng là các cặp vợ chồng chưa muốn sinh con.
Phương pháp xuất tinh ngoài âm đạo
Phương pháp này còn gọi là giao hợp gián đoạn, đòi hỏi sự chủ động của nam giới trong lúc giao hợp. Dương vật được rút nhanh chóng ra khỏi âm đạo trước khi phóng tinh và phóng tinh ra ngoài âm đạo. Không để tinh dịch rỉ ra khi dương vật còn trong âm đạo và không để tinh dịch đã phóng ra ngoài rơi trở lại âm đạo.
Phương pháp này được sử dụng rộng rãi cả ở một số nước phát triển lẫn đang phát triển. Mục đích của nó là không cho phép tinh trùng gặp được noãn, ngăn cản hiện tượng thụ tinh. Tỷ lệ thất bại trung bình 27%. Lợi ích, về kinh nguyệt không ảnh hưởng dài hạn hay toàn thân; phương pháp này luôn sẵn sàng, khuyến khích tính tự chủ của nam giới. Tuy nhiên nó có bất lợi, tỷ lệ thất bại khá cao, đòi hỏi phải tuân thủ rất chặt chẽ tất cả các hành động trong lúc giao hợp, sự quyết tâm dứt khoát của nam giới.
Ảnh minh họa |
Phương pháp xuất tinh ngoài âm đạo không đủ bảo vệ chống lại sự lây nhiễm bệnh, nhất là những bệnh lây lan qua đường tình dục như giang mai, lậu, bệnh mào gà và bệnh herpers sinh dục. Không có biến chứng.
Các đối tượng sử dụng: các cặp vợ chồng có mối thông cảm tốt trong giao hợp, ổn định về tâm lý, cặp vợ chồng không bị cấm đoán giao hợp gián đoạn về lễ giáo và phong tục. Sử dụng thuốc tránh thai khẩn cấp khi thực hiện phương pháp này thất bại và xem xét chọn phương pháp tránh thai khác.
Phương pháp tránh ngày phóng noãn
Phương pháp này có tên gọi khác là phương pháp nhận biết thời điểm rụng trứng để tránh thai. Là phương pháp sinh lý tránh thụ thai, cụ thể là tránh giao hợp vào những ngày có nhiều khả năng thụ thai nhất trong chu kỳ kinh. Đây là kết quả của những nghiên cứu về sinh lý buồng trứng và khả năng hoạt động của tinh trùng. Tránh ngày phóng noãn là chọn thời điểm giao hợp cách xa những ngày phóng noãn, nhằm mục đích tinh trùng sống không gặp được noãn sống. Thời gian thụ thai có thể bắt đầu 3 - 5 ngày trước trứng rụng bởi vì tinh trùng có thể sống trong chất nhầy cổ tử cung 3 - 4 ngày, thời gian thụ thai sẽ kết thúc 24 giờ sau rụng trứng.
Như vậy, muốn tránh thai có kết quả bằng phương pháp sinh lý thì phải kiêng giao hợp ít nhất 3 ngày trước và một ngày sau khi phóng noãn. Bình thường chu kỳ kinh nguyệt của nữ giới 28 - 30 ngày, ngày phóng noãn thường xảy ra giữa chu kỳ kinh, trung bình vào ngày thứ 14 - 15 của chu kỳ kinh. Trong giai đoạn phóng noãn, vợ chồng không nên giao hợp để tránh có thai gọi là giai đoạn kiêng tuyệt đối.
Trên thực tế nhận biết thời điểm rụng trứng để tránh thai bao gồm phương pháp tính lịch (Ogino- Knauss), phương pháp đo thân nhiệt (Basal body Temperature method) và phương pháp dựa trên tính chất về chất nhầy cổ tử cung (Billings), để xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc thụ thai, từ đó tránh được ngày không muốn có thai.
Ogino - Knauus tìm ra quy luật: hiện tượng phóng noãn bao giờ cũng xảy ra ở một thời gian cố định, liên quan không phải với thời điểm hành kinh của chu kỳ trước mà là thời điểm hành kinh của chu kỳ tới, hiện tượng phóng noãn bao giờ cũng xảy ra từ ngày 12 - 16 trước khi kinh sắp tới. Áp dụng đối với nữ giới có vòng kinh ổn định 28 ngày thì tránh giao hợp từ ngày thứ 10 đến ngày thứ 17 của chu kỳ kinh trước, tương ứng với ngày thứ 19 – 10 trước kỳ kinh tới.
Phương pháp đo thân nhiệt cơ bản
Phương pháp này do Ferin đề xuất năm 1947, dựa trên cơ sở phát hiện ra đường cong thân nhiệt hai thì trong chu kỳ kinh nguyệt có phóng noãn. Giả thuyết cho rằng nhiệt độ đo vào lúc sáng sớm trước lúc ngồi dậy sẽ tăng đáng kể khi rụng trứng, giai đoạn thụ thai được xác định là ngày đầu tiên nhiệt độ giảm xuống hoặc sự gia tăng đầu tiên 3 ngày liên tiếp nhiệt độ tăng, nhiệt độ giảm xuống không luôn luôn xảy ra. Không giao hợp bắt đầu của kinh nguyệt và tới khi 3 ngày liên tiếp nhiệt độ tăng lên ổn định. Cách đo thân nhiệt bằng nhiệt kế nhất định đo ở miệng hay đo ở nách vào một giờ nhất định vào buổi sáng vừa thức dậy, chưa ra khỏi giường, trong vòng 5 phút, đọc nhiệt độ và ghi vào bảng nhiệt độ, sẽ thấy đường biểu diễn thân nhiệt có hai pha. Pha 1: sau khi thấy kinh, thân nhiệt luôn luôn 37oC, ngày phóng noãn nhiệt độ đột ngột hạ thấp rồi tăng nhanh trên 37oC. Pha 2: sau ngày phóng noãn thân nhiệt luôn giữ trên 37oC, do tác dụng progesterone của hoàng thể lên trung tâm điều hòa nhiệt độ vùng dưới đồi thị.
Dựa vào đó ta có thể tránh giao hợp vào 3 ngày trước ngày dự kiến có phóng noãn và 2 ngày sau khi nhiệt độ đã lên cao, thời kỳ đầu sau kinh là thời kỳ an toàn tương đối, thời kỳ sau khi nhiệt độ lên cao là thời kỳ an toàn tuyệt đối. Muốn xác định ngày phóng noãn đúng qua đường biểu diễn thân nhiệt, cần thiết phải đo thân nhiệt 3 - 6 chu kỳ liên tiếp. Đây là phương pháp dễ làm, không tốn kém và rất chính xác để chọn ngày phóng noãn, chỉ cần thực hiện đúng quy tắc đo thân nhiệt.
Phương pháp xác định trứng rụng
Đây là phương pháp xác định trứng rụng dựa trên tính chất của chất nhầy cổ tử cung: vào những ngày phóng noãn, chất nhầy cổ tử cung ra nhiều, trong, dai, nếu đặt trên lame kính để khô soi dưới kính hiển vi sẽ thấy hình ảnh kết tinh của các tinh thể muối NaCl thành lá dương xỉ. Sau phóng noãn 3 ngày, chất tiết cổ tử cung trở nên đặc, bở, soi không thấy hình lá dương xỉ. Đây là giai đoạn tránh thai an toàn.
Chất nhầy trước trứng rụng: vẩn đục vàng hay trắng, dính. Chất nhầy trong lúc rụng trứng: trong, kéo dài dính, dai. Chất nhầy có khả năng thụ thai: đặc vẩn đục nhầy. Chất nhầy sau thụ thai, sau rụng trứng ít hoặc không có.
Phương pháp tránh ngày phóng noãn có tỷ lệ thất bại trung bình 25%. Ưu điểm giúp nữ giới hiểu biết về sinh lý chu kỳ kinh nguyệt. Phải biết, không được giao hợp hoặc dùng phương pháp tránh thai khác trong giai đoạn có thể thụ thai.
Phương pháp này khó áp dụng ở thanh thiếu niên, sắp mãn kinh và giai đoạn hậu sản vòng kinh không đều. Chất lượng đánh giá chất nhầy cổ tử cung có thể bị biến đổi do nhiễm trùng âm đạo, không hữu ích trong thời gian căng thẳng, không bảo vệ chống lại bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Các đối tượng sử dụng: nữ giới với vòng kinh đều, ít nguy cơ bị bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, những cặp vợ chồng chấp nhận không giao hợp trong những ngày trứng rụng.
Tránh thai truyền thống là các phương pháp được áp dụng rộng rãi thích hợp cho các đối tượng đặc biệt các trường hợp chống chỉ định dùng các phương pháp tránh thai có sử dụng thuốc hay sử dụng dụng cụ. Cần tuân thủ đúng phương pháp và có sự đồng thuận cả vợ chồng.
BS.CKII. NGUYỄN HỮU THUẬN