Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, tổn thương bỏng xuất hiện rất sớm, từ khi con người biết tạo ra lửa và dùng lửa. Từ đó, các nguyên nhân gây bỏng ngày càng đa dạng hơn, tổn thương bỏng ngày càng phức tạp hơn do xuất hiện các tác nhân và các cơ chế gây bỏng mới. Vì vậy, kiến thức sơ cứu và điều trị tổn thương bỏng cũng cần được cập nhật đầy đủ hơn.
Sơ cứu nạn nhân bỏng
Điều trị toàn thân: bao gồm bồi phụ dịch thể, truyền máu, đạm, huyết tương, kháng sinh (uống hoặc tiêm theo chỉ định), trợ tim, trợ sức, lợi niệu thải độc... Việc theo dõi người bệnh cần liên tục, phát hiện kịp thời các biến chứng để xử trí.
Điều trị tích cực cho bệnh nhân bỏng nặng. |
Điều trị tại chỗ vết bỏng:
Thay băng bỏng: tùy theo tính chất, vị trí tổn thương để quyết định dùng phương pháp băng kín, bán hở hoặc để hở vết thương; thay băng hàng ngày hoặc cách ngày; dùng thuốc thích hợp tại vết bỏng. Các loại thuốc điều trị tại vết bỏng bao gồm:
Nhóm thuốc có tác dụng làm rụng hoại tử: như trypsin, pepsin, papain, bromelain... hoặc mỡ axit salyxilic 40%, lanolin...;
Thuốc có tác dụng kháng khuẩn, sát khuẩn: axit boric (dung dịch 2 - 3%, mỡ 5 - 10% hoặc bột tinh thể). Hiện nay, các cơ sở điều trị bỏng ở nước ta dùng phổ biến berberin dung dịch 0,1%, cream 0,5%; mỡ madhuxin. Ngoài ra, còn nhiều loại thuốc nam có tác dụng điều trị nhiễm khuẩn vết bỏng như nước sắc cây cỏ lào, cây mỏ quạ, cây lân tơ-uyn, kháo vàng, kháo nhậm, lá trầu không, dung dịch vàng đắng...
Thuốc có tác dụng tạo màng che phủ vết bỏng: được dùng phổ biến là tanin dung dịch 5%. Một số thuốc nam có tác dụng làm se khô và tạo màng thuốc như cao đặc lá sim, cao đặc vỏ cây xoan trà (B76)... Hiện nay, cao đặc vỏ cây xoan trà được dùng rộng rãi tại nhiều địa phương. Sau khi rắc, phun sẽ tạo thành một màng thuốc che phủ vết bỏng, không cần thay băng, tiết kiệm bông băng gạc, bớt đau đớn vì không phải thay băng nhiều lần. Màng thuốc sẽ tự bong ra khi quá trình biểu mô hóa được hoàn tất, chất lượng sẹo tốt. Tuy nhiên, dùng thuốc phải đúng chỉ định (vết bỏng nông, bỏng mới), không dùng trên các vết bỏng sâu, vết bỏng đã nhiễm khuẩn, không dùng quanh chu vi chi thể và việc xử lý vết bỏng trước khi dùng thuốc phải đúng kỹ thuật.
Nhóm thuốc có tác dụng thúc đẩy quá trình tái tạo vết bỏng: dầu gan cá thu, dầu gấc, thuốc mỡ rau má, tinh dầu mù u, biafine, madecassol, thuốc mỡ cao vàng, hebermin, chitosan...
Các vật liệu sinh học có tác dụng che phủ tạm thời vết bỏng: như màng nhau thai, da đồng loại, dị loại (da ếch, trung bì da lợn), màng biobrane, dermagraft, intergra, màng collagen, vải các-bon, tấm nguyên bào sợi đồng loại nuôi cấy... Việc sử dụng các loại vật liệu sinh học ngày càng rộng rãi góp phần quan trọng cứu sống các bệnh nhân bỏng sâu diện rộng.
Mời xem tiếp trên SK&ĐS số 94 ra ngày 13/6/2013
TS. Chu Anh Tuấn (Viện Bỏng Quốc gia)