Tầm quan trọng của việc kiểm đếm tổn thất do dịch bệnh
COVID-19 đã giết chết khoảng 15 triệu người kể từ khi xuất hiện vào cuối năm 2019, nhưng tác động của đại dịch này đối với sức khỏe của dân số thể giới còn nhiều hơn nữa. Đối với hàng trăm triệu người trên khắp thế giới, việc nhiễm coronavirus SARS-CoV-2 đã gây ra một loạt vấn đề, từ các tác động cấp tính của bệnh đến các triệu chứng kéo dài được gọi là COVID kéo dài.
Việc xác định quy mô của gánh nặng y tế đó là một thách thức, nhưng các Chính phủ có thể sử dụng những số liệu này để lập kế hoạch chi tiêu ngân sách chăm sóc sức khỏe. Do đó, các nhà nghiên cứu đang bắt đầu kiểm đếm các tác động của COVID-19 đến sức khỏe tổng thể thế giới và cố gắng rút ra bài học từ bất kỳ mô hình nào.
Chẳng hạn, họ hy vọng có thể phân biệt được các quần thể khác nhau bị ảnh hưởng như thế nào và cung cấp bằng chứng về tác động của việc triển khai vaccine và các biến thể mới của virus.
Tuy nhiên, ngay cả khi không có đại dịch, đã không có cách nào dễ dàng để kiểm đếm tất cả các tác động của các tình trạng sức khỏe khác nhau: có thể khó có được dữ liệu tốt và các quyết định về cách đo lường gánh nặng vốn dĩ mang tính chủ quan.
Theo nhà dịch tễ học Vos thuộc Viện Đo lường và Đánh giá Sức khỏe (IHME) tại Đại học Washington ở Seattle, Mỹ - một trung tâm nghiên cứu nhằm mục đích phân loại gánh nặng sức khỏe toàn cầu của bệnh tật – cho hay: "Khó có thể có câu trả lời chính xác cho những câu hỏi kiểu như anh đánh giá thế nào về một năm mắc bệnh hen suyễn, một năm không có chân, một năm mắc bệnh trầm cảm?".
Những tính toán đó thậm chí còn khó hơn khi các nhà khoa học đang phải vật lộn với một loại virus mới và một căn bệnh kém đặc trưng.
Các nhóm nghiên cứu đang thử nghiệm một số cách để tính toán gánh nặng của COVID-19 và nhiều nhóm đang bắt đầu báo cáo kết quả của họ. Dữ liệu ban đầu cho thấy tác động là đáng kể và thay đổi theo quốc gia. Một nghiên cứu cho thấy, COVID-19 đã gây ra thiệt hại nặng nề trên 16 quốc gia châu Âu, nhưng tác động lên các quốc gia khác nhau do các yếu tố khác nhau, từ cấu trúc tuổi của dân số đến phản ứng chính trị đối với đại dịch.
Các ước tính do quốc gia đưa ra cung cấp chi tiết hơn. Cụ thể, ở Scotland, COVID-19 chỉ đứng sau bệnh thiếu máu cơ tim về mức độ ảnh hưởng của nó đối với sức khỏe người dân vào năm 2020. Ở Hà Lan, gánh nặng COVID-19 gấp 16 lần so với một mùa cúm điển hình.
Trong bối cảnh đại dịch vẫn đang hoành hành ở nhiều nơi trên thế giới, còn quá sớm để tính toán tổng chi phí thiệt hại. Nhưng một số nhà nghiên cứu cho rằng đại dịch đã giúp thay đổi cách họ tính toán ảnh hưởng sức khỏe của bệnh tật.
Sara Monteiro Pires, nhà dịch tễ học tại Đại học Kỹ thuật Đan Mạch, cho biết: "Đại dịch đã giúp sự hợp tác trong lĩnh vực ước tính gánh nặng bệnh tật được tăng cường. Các nhà nghiên cứu hiện đang hài hòa các quy trình mà họ sử dụng để ước tính gánh nặng bệnh tật và điều chỉnh các mô hình cho phù hợp với dữ liệu có sẵn ở từng địa điểm. Họ hy vọng điều này sẽ làm cho kết quả chính xác hơn".
Dịch vụ Y tế Quốc gia Vương quốc Anh liệt kê hàng chục triệu chứng COVID-19 ở người lớn, từ mất khứu giác đến nhiệt độ cao. Ngay cả những người mắc bệnh tương đối nhẹ và điều trị các triệu chứng tại nhà cũng có thể thấy những ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe, chẳng hạn như mệt mỏi hoặc khó thở. Nếu các triệu chứng tiếp tục kéo dài sau một vài tháng, mọi người có thể được chẩn đoán mắc một căn bệnh được biết đến rộng rãi là COVID kéo dài.
Để định lượng mức độ ảnh hưởng của một căn bệnh đến toàn bộ dân số, các nhà khoa học kết hợp dữ liệu về trải nghiệm của từng cá nhân, bao gồm số người bị nhiễm, số người có các triệu chứng nhất định, thời gian mắc bệnh, số người cần điều trị tại bệnh viện hoặc tử vong và tuổi của bệnh nhân, cùng những dữ liệu khác…. Sau đó, họ sử dụng các dữ liệu để tính xem con người đã mất bao nhiêu năm cuộc sống vì căn bệnh này và bao nhiêu năm sống với các triệu chứng tàn phế.
Các nhà nghiên cứu có thể sử dụng kỳ vọng sống trung bình ở một quốc gia để tính xem tuổi thọ đã mất đi bao nhiêu năm do chết sớm. Tuy nhiên, tổn thất do khuyết tật khó tính toán hơn. Để định lượng chúng, các nhà nghiên cứu sử dụng dữ liệu về số người bị ảnh hưởng bởi một căn bệnh nhất định, khoảng thời gian họ mắc bệnh và giá trị của căn bệnh được gọi là trọng lượng khuyết tật. Nhóm Gánh nặng Bệnh tật Toàn cầu của IHME áp dụng một danh sách tiêu chuẩn về trọng lượng khuyết tật - phiên bản mới nhất hiện có được xuất bản vào năm 2019 – cho thấy trọng lượng khuyết tật của chứng gây đau tai nhẹ là 0,013 và bệnh đa xơ cứng nặng là 0,719 (trọng lượng bằng 0 là sức khỏe hoàn hảo; trọng lượng bằng 1 là tử vong).
Hiện tại, không có trọng lượng khuyết tật tiêu chuẩn cho COVID-19. Thay vào đó, các nhà nghiên cứu sử dụng trọng số khuyết tật liên quan đến các bệnh truyền nhiễm khác và tình trạng sức khỏe tương tự.
Tổng số năm cuộc đời bị mất do bệnh tật, tàn tật hoặc chết sớm đưa ra ước tính gánh nặng trong một đơn vị được gọi là số năm sống được điều chỉnh theo mức độ tàn tật, hoặc DALYs. Đây là nền tảng của nghiên cứu về gánh nặng bệnh tật.
Dữ liệu để tính DALYs đến từ nhiều nguồn khác nhau. Nhiều loại được thu thập thường xuyên bởi các cơ quan y tế quốc gia. Đối với COVID-19, một số dữ liệu đã được thu thập thông qua các nỗ lực giám sát có mục tiêu, chẳng hạn như nghiên cứu REACT (Đánh giá thời gian thực về sự lây truyền từ cộng đồng), một bài tập lấy mẫu lớn bắt đầu vào năm 2020 và đã ghi lại cách thức SARS-CoV-2 di chuyển qua Anh và những triệu chứng mà mọi người đang gặp phải.
Dữ liệu từ nghiên cứu REACT cho thấy ảnh hưởng sức khỏe của COVID-19 có thể kéo dài. Theo một thống kê được công bố vào tháng 7 năm ngoái, khoảng 19% dân số Anh đã mắc COVID-19 và khoảng 1/3 trong số đó - hơn 2 triệu người trưởng thành - đã trải qua một hoặc nhiều triệu chứng trong ít nhất 12 tuần "Đó là 6% dân số" - Paul Elliot, nhà dịch tễ học tại Đại học Imperial College London, người dẫn đầu nghiên cứu REACT và đồng tác giả của nghiên cứu trên, cho biết.
Max Taquet, một nhà nghiên cứu lâm sàng và kỹ sư tại Đại học Oxford, Vương quốc Anh, người sử dụng dữ liệu từ hồ sơ y tế để hiểu các hậu quả thần kinh và tâm thần của COVID-19, nói rằng ước tính ảnh hưởng sức khỏe của COVID kéo dài là rất khó và các con số là giật mình. Ông nói: "Nhiều người trong chúng tôi ngạc nhiên về quy mô của vấn đề, nhưng có thể thấy rõ rằng hội chứng sau nhiễm trùng của bệnh này nghiêm trọng hơn các bệnh nhiễm virus khác". Với COVID-19, các nhà khoa học đang theo dõi hậu quả trong thời gian thực.
Tuy nhiên, không có gì đảm bảo rằng những nguồn dữ liệu này sẽ tồn tại. Chính phủ Vương quốc Anh đã thông báo vào tháng 3 rằng họ sẽ ngừng tài trợ cho một số chi nhánh của nghiên cứu REACT và cho một nỗ lực giám sát khác.
Gánh nặng lớn
Kết quả ban đầu về sức khỏe bị mất do COVID-19 đang nhỏ giọt. Gianfranco Politano, nhà thông tin sinh học tại Đại học Bách khoa Turin, Ialiat, người đã tham gia vào nghiên cứu tại 16 quốc gia châu Âu, cho biết: "Nhìn chung, tác động của COVID-19 đã ở mức cao đáng kể trên toàn thế giới".
Nghiên cứu của châu Âu cho thấy rằng Slovakia có lẽ có gánh nặng thấp hơn các quốc gia khác vì Chính phủ đã hành động nhanh chóng để phong tỏa xã hội và sự nghiêm chỉnh chấp hành của người dân. Ngược lại, gánh nặng cao hơn ở Thụy Điển, nơi chính phủ áp dụng phương pháp "miễn dịch bầy đàn" và cho phép virus lây lan phần lớn mà không bị kiểm soát.
Các phân tích theo từng quốc gia cũng cho thấy những khác biệt lớn về gánh nặng sức khỏe của COVID-19. Nghiên cứu từ Malta cho thấy từ tháng 3/2020 - tháng 3/2021, COVID-19 trở thành nguyên nhân gây tàn tật đứng hàng thứ tư, xếp sau bệnh thiếu máu cơ tim, đau thắt lưng và bệnh tiểu đường. Ở Ấn Độ, nó xếp hạng thấp hơn nhiều, chỉ chiếm 3% tổng gánh nặng sức khỏe ở nước này, là gánh nặng ít hơn so với bệnh tim thiếu máu cục bộ, thiếu hụt dinh dưỡng và các bệnh hô hấp mãn tính. Tuy nhiên, các tác giả thừa nhận rằng các trường hợp COVID-19 có thể được báo cáo ít ở Ấn Độ, điều này sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ DALY.
Ở mỗi dự án, nguồn dữ liệu hơi khác nhau, điều này có thể làm tăng thêm sự thay đổi trong ước tính DALY. Ví dụ, nhóm nghiên cứu ước tính DALYs cho 16 quốc gia Châu Âu đã sử dụng dữ liệu tổng hợp từ Trung tâm Phòng ngừa và Kiểm soát Dịch bệnh Châu Âu (ECDC), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Nhóm Ngân hàng Thế giới; nhiều nghiên cứu quốc gia đã sử dụng dữ liệu chi tiết hơn về quốc gia cụ thể. Do đó, các ước tính DALY cho cùng một quốc gia sẽ khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Ví dụ: sử dụng dữ liệu của ECDC, WHO và Ngân hàng Thế giới cho Đan Mạch, đưa ra con số 116 DALY trên 100.000 người, trong khi nhóm của Monteiro Pires sử dụng dữ liệu từ các hệ thống y tế của Đan Mạch để đưa ra con số gần hơn với 520.
Mạng lưới các nhà dịch tễ học và các nhà nghiên cứu sức khỏe cộng đồng từ 53 quốc gia trên toàn thế giới nhanh chóng nhận ra rằng cần phải ghi nhận gánh nặng sức khỏe cộng đồng của virus đại dịch mới ra đời và bắt đầu phát triển một giao thức đồng thuận, bao gồm một mô hình cụ thể cho sự tiến triển của bệnh COVID- 19 từ nhiễm trùng đến hồi phục hoặc tử vong.
Kể từ thời điểm đó, nhiều quốc gia đã sử dụng giao thức đó. Các nhà nghiên cứu mạng hiện đã hoàn thành ước tính gánh nặng cho Malta, Đan Mạch, Hà Lan, Scotland, Ireland và Đức, dự kiến sẽ được công bố nhiều hơn trong những tháng tới.
Một công việc quan trọng là điều chỉnh các định nghĩa được sử dụng trong bộ dữ liệu để có thể so sánh gánh nặng bệnh tật giữa các quốc gia. Nhưng vẫn còn quá sớm để đưa ra bất kỳ kết luận quan trọng nào từ công trình này. Hiện vẫn chưa có ước tính về thiệt hại sức khỏe toàn cầu do COVID-19, nhưng IHME đã đưa ra số liệu cho một danh mục các bệnh khác kể từ những năm 1990. Vào đầu năm 2020, khi rõ ràng một đại dịch đang xảy ra, viện đã có sẵn máy móc để giúp họ hiểu được những ảnh hưởng sức khỏe rộng lớn hơn của SARS-CoV-2 và bắt đầu làm việc để thêm COVID-19 vào danh mục.
Ngược lại với nhiều tính toán khác, dữ liệu bao gồm cả các ước tính về gánh nặng của COVID kéo dài. Vos đã trình bày những dữ liệu chưa được công bố này cho các cơ quan chức năng của Mỹ để giúp họ xử lý các triệu chứng kéo dài có thể ảnh hưởng đến khả năng làm việc của mọi người như thế nào. Các phát hiện cho thấy rằng vào năm 2020 và 2021, ước tính có khoảng 4,6 triệu người ở Mỹ có các triệu chứng COVID kéo dài ít nhất ba tháng. Định nghĩa COVID kéo dài của Vos xoay quanh ba cụm triệu chứng, tập trung vào sự mệt mỏi, các vấn đề về nhận thức và các vấn đề về hô hấp đang diễn ra. Hơn 85% các trường hợp này là kết quả của một đợt COVID-19 mà không cần điều trị tại bệnh viện.
"Đó là một vấn đề lớn, đây là những người bị di chứng bệnh khá nặng" – nhà nghiên cứu Vos nói.
Mô hình của nhóm nghiên cứu cho thấy rằng khoảng 5% phụ nữ và 2% nam giới từng bị COVID-19 mức độ nhẹ vẫn có các triệu chứng sau 6 tháng kể từ khi giai đoạn cấp tính của bệnh kết thúc. Đối với những người điều trị tại bệnh viện, tỷ lệ này là 26% ở phụ nữ và 15% ở nam giới, tăng lên lần lượt là 42% và 27% nếu bệnh nhân phải điều trị tại phòng chăm sóc đặc biệt.
Nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng những người bị COVID kéo dài có trọng lượng khuyết tật trung bình là 0,21 - tương đương với việc mất thính giác hoàn toàn hoặc chấn thương sọ não nghiêm trọng. "Hy vọng rằng điều này sẽ kích hoạt nhận thức của các bác sĩ điều trị rằng tình trạng này không hề đơn giản và nó có tồn tại" - ông Vos nói thêm.
Khoảng trống dữ liệu
Một vấn đề lớn đối với các nhà nghiên cứu đang cố gắng ước tính gánh nặng của COVID-19 là mức độ bao phủ của dữ liệu. Một số quốc gia, chẳng hạn như những quốc gia ở quần đảo Thái Bình Dương, ghi lại rất ít trường hợp đến nỗi dữ liệu không có tính thống kê chính xác. Và nhiều quốc gia ở châu Phi cận Sahara, trong số các khu vực khác, thiếu khả năng theo dõi số ca tử vong do COVID do hệ thống đăng ký không đầy đủ.
Nhóm IHME giải quyết vấn đề này bằng cách sử dụng dữ liệu từ các quốc gia láng giềng để tạo ra các ước tính cụ thể cho từng quốc gia. Nhưng cuối cùng, các tính toán chính xác sẽ yêu cầu thu thập dữ liệu chi tiết hơn. Andrew Briggs, một nhà kinh tế y tế tại Trường Vệ sinh & Y học Nhiệt đới London, cho biết: "Một số quốc gia nghĩ rằng cải thiện hệ thống thông tin là ưu tiên trong một đại dịch, nhưng về mặt chuẩn bị thì chúng ta nên như vậy".
Điểm mù dữ liệu thứ hai là COVID kéo dài. Cho đến nay, chỉ có một số nhóm nghiên cứu bên ngoài IHME đưa dữ liệu như vậy vào ước tính của họ. Những nhà nghiên cứu khác nghĩ rằng nếu không có thông tin tốt về COVID kéo dài, việc tính toán gánh nặng của bệnh là quá sớm.
Grant Wyper, chuyên gia về gánh nặng bệnh tật cho Y tế Công cộng Scotland, nói rằng dữ liệu về COVID kéo dài rất thưa thớt và tình trạng bệnh thường được xác định theo nhiều cách khác nhau - kết hợp dữ liệu từ những người chỉ mắc một triệu chứng, như mất khứu giác, với những người có một số triệu chứng, sẽ có tác động nghiêm trọng hơn đến chất lượng cuộc sống.
Bởi vì quá ít thông tin được biết khi họ phát triển mô hình bệnh ban đầu nên Wyper và nhóm của ông đã sử dụng trọng lượng khuyết tật nói chung cho các ảnh hưởng sức khỏe sau khi bị nhiễm trùng. Hiện họ đang làm việc để tinh chỉnh tỷ trọng khuyết tật đối với COVID kéo dài để làm cho sự tính toán chính xác hơn.
Để có những ước tính về gánh nặng của COVID kéo dài, IHME đã tìm kiếm các nghiên cứu thuần tập đang diễn ra nhằm ghi lại các triệu chứng và trong một số trường hợp, các đánh giá về sức khỏe nói chung trước khi phát triển COVID-19. Mô hình của nghiên cứu này tập hợp dữ liệu từ 10 nhóm trên toàn thế giới và bao gồm hơn 5 nghìn người được điều trị tại cộng đồng hoặc bệnh viện, cũng như dữ liệu từ hồ sơ y tế và các nghiên cứu đã xuất bản.
Nhưng các ước tính dựa trên giả định rằng những người không có triệu chứng trong giai đoạn cấp tính không phát triển COVID kéo dài. Tuy nhiên, Taquet phân tích: "Không có lý do gì để tin rằng một người không có triệu chứng tại thời điểm nhiễm trùng cấp tính sẽ không phát triển các triệu chứng của COVID kéo dài". Nhóm của ông đã phát hiện ra rằng cứ 5 người thì có 2 người có các triệu chứng COVID kéo dài từ 3–6 tháng sau khi nhiễm bệnh đã không báo cáo các triệu chứng trong 3 tháng đầu tiên.
Một số nhóm có thể bị ảnh hưởng không tương xứng bởi COVID-19. Nhà nghiên cứu Briggs nhấn mạnh rằng dữ liệu nên được thu thập theo cách nhạy cảm với dữ liệu đó và được chia nhỏ theo độ tuổi, kinh tế xã hội và nhóm dân tộc. Ông nói: "Khi chúng ta chuyển sang một tình huống bệnh đặc hữu, chúng ta phải quan tâm nhiều hơn đến sự công bằng xã hội. Về phần mình, Mạng lưới Gánh nặng Dịch bệnh Châu Âu đang hy vọng xem xét sự bất bình đẳng xã hội ảnh hưởng như thế nào đến gánh nặng sức khỏe trong tương lai".
Việc đo lường DALYs cần có thời gian - thường thì các phân tích chỉ được thực hiện mỗi năm một lần. Điều đó có nghĩa là một số câu hỏi chính về gánh nặng của COVID-19 - chẳng hạn như vaccine đã ảnh hưởng đến tỷ lệ bệnh tật và mức độ nghiêm trọng như thế nào - sẽ không được trả lời trong một thời gian.
Theo Maria Gianino, nhà kinh tế học tại Đại học Turin, người đã thực hiện nghiên cứu về 16 quốc gia châu Âu, việc COVID-19 mới xuất hiện được vài năm có nghĩa là các nhà khoa học không có đủ dữ liệu để đưa ra dự báo chính xác. .
Bất chấp những thách thức đó, Monteiro Pires cho rằng tương lai của các nghiên cứu về gánh nặng bệnh tật là rất quan trọng. "Phải thừa nhận rằng đây là một công cụ quan trọng cho sức khỏe cộng đồng" – ông Pires khẳng định.