Tim nhanh kịch phát là loại cấp cứu rối loạn nhịp hay gặp nhất ở trẻ em, bệnh thường do căn nguyên bẩm sinh do tồn tại đường dẫn truyền xung điện tim bất thường. Cơn tim nhanh có thể xuất hiện ở bất cứ tuổi nào, ngay từ thời kì bào thai; nhưng thường biểu hiện sớm trong năm đầu sau sinh.
Cơn tim nhanh kịch phát có đặc tính xuất hiện và mất đi đột ngột, kéo dài vài phút đến hàng giờ, tái phát nhiều lần. Bệnh thường gây hoang mang, lo lắng và ảnh hưởng đến cuộc sống của bệnh nhân và gia đình.
Biểu hiện bệnh khá phức tạp, từ các triệu chứng mơ hồ hoặc không rõ ràng đến tình trạng nguy kịch xuất hiện đột ngột. Khi cơn tim nhanh kéo dài thường gây suy tim; nếu không được cấp cứu cắt cơn, trẻ có thể tử vong. Một số trường hợp trẻ có thể biểu hiện tình trạng nguy kịch ngay khi mới xuất hiện như ngất hoặc đột tử.
Thách thức trong chẩn đoán
Việc chẩn đoán chủ yếu dựa vào ghi được điện tâm đồ trong cơn tim nhanh. Đây là bằng chứng cực kì quan trọng giúp định hướng chẩn đoán loại cơn tim nhanh và quyết định phương pháp điều trị hợp lý. Tuy nhiên, phần lớn bệnh nhân đến khám bệnh đã hết cơn tim nhanh và điện tâm đồ đã trở về bình thường. Với những tiến bộ của khoa học và công nghệ, các kĩ thuật chẩn đoán và điều trị ngày càng tân tiến. Hầu hết các loại tim nhanh kịch phát đã được chẩn đoán và điều trị triệt để.
Dấu hiệu nhận biết ở trẻ nhỏ (dưới 5 tuổi): Các triệu chứng để nhận biết cơn tim nhanh ở trẻ nhỏ thường không đặc hiệu và khó xác định. Trẻ thường biểu hiện bú kém, quấy khóc, thở nhanh. Nặng hơn thì ngủ nhiều hoặc lơ mơ, da lạnh và tái, đái ít. Dấu hiệu nhận biết quan trọng nhất là nhìn vào lồng ngực trước tim hoặc sờ ngực trước tim thấy tim đập nhanh và mạnh, hoặc quan sát vùng cổ hai bên trên xương đòn thấy “phập phồng theo tim đập” rất nhanh, đếm nhịp tim thường thấy tim đập trên 220 lần/phút trong khi nhịp tim bình thường ở trẻ bú mẹ khi nghỉ là dưới 160 lần/phút.
Dấu hiệu nhận biết cơn tim nhanh ở trẻ lớn: Trẻ thường kêu đột ngột có cơn đánh trống ngực hoặc tim đập nhanh khi nghỉ và mất đi đột ngột, tái diễn nhiều lần. Thường có một trong các triệu chứng kèm theo: đau tức ngực, khó thở, mệt mỏi, khó chịu. Một số trường hợp có thể ngất xỉu và hiếm khi đột tử.
Điện tâm đồ trong cơn tim nhanh: Chẩn đoán xác định cơn tim nhanh phải dựa vào bằng chứng điện tâm đồ ghi được trong lúc tim nhanh. Phải phân biệt tim nhanh do bệnh lý loạn nhịp với nhiều tình trạng bệnh lý khác cũng gây tim nhanh, đây là một thách thức đối với hầu hết các bác sĩ nếu không phải chuyên khoa loạn nhịp.
Phần lớn điện tâm đồ làm khi khám bệnh là bình thường: Hầu hết các trẻ khi đến khám thì cơn nhịp nhanh đã hết hoặc không còn triệu chứng như đã gặp. Ghi điện tâm đồ lúc này phần lớn các trường hợp (80%) có hình ảnh điện tim bình thường.
Các phương pháp ghi điện tim chẩn đoán khác: Để ghi được điện tim trong lúc xuất hiện triệu chứng nghi ngờ tim nhanh, bệnh nhân cần phải được gắn máy ghi điện tim liên tục trong nhiều giờ hoặc nhiều ngày, hoặc mang theo máy ghi điện tim cầm tay, hoặc được cấy máy tự ghi nhịp tim trong cơ thể.
Bệnh viện Nhi Trung ương là đơn vị đầu tiên và duy nhất trong hệ thống các bệnh viện nhi của cả nước có thể can thiệp điều trị hầu hết các rối loạn nhịp tim ngay từ thời kì sơ sinh. Từ năm 2012 đến nay, hơn 120 bệnh nhi nhịp tim nhanh đã được điều trị thành công và an toàn bằng kĩ thuật can thiệp điều trị bằng sóng cao tần.
Thăm dò điện sinh lý trong buồng tim: Ngày nay, với phương pháp thăm dò điện sinh lý trong tim cho phép chẩn đoán chính xác hầu hết các rối loạn nhịp. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ được áp dụng đối với một số trường hợp nghi ngờ loạn nhịp tim có triệu chứng nguy hiểm và khi có chỉ định điều trị triệt để bằng can thiệp.
Xu hướng điều trị tim nhanh trên thất
Điều trị bằng thuốc chống loạn nhịp: Đây là phương pháp điều trị phổ biến hiện nay. Các thuốc chống loạn nhịp để cắt cơn và dự phòng tái phát cơn cho các bệnh nhân có cơn tim nhanh kéo dài và cơn tim nhanh nguy kịch. Tuy nhiên, việc dùng các thuốc chống loạn nhịp có nhiều hạn chế: không điều trị được triệt để, uống thuốc hàng ngày, dùng thuốc kéo dài, tác dụng hạn chế (hiện tượng kháng thuốc), tác dụng phụ của thuốc, chi phí đi lại và thăm khám nhiều lần.
Giải pháp điều trị triệt để:
Phương pháp can thiệp điều trị bằng sóng cao tần được lựa chọn hàng đầu đối với người lớn và trẻ lớn cho hầu hết các loại tim nhanh. Đây là biện pháp điều trị triệt để, chống tái phát cơn, tỉ lệ điều trị thành công trên 95%, ít tai biến và biến chứng do kĩ thuật. Đây cũng là phương pháp thay thế cho phương pháp phẫu thuật điều trị loạn nhịp trước đây.
Phương pháp can thiệp điều trị được thực hiện bằng sử dụng một hệ thống các thiết bị chẩn đoán công nghệ cao cùng với 3 dây điện cực được đưa qua da vào mạch máu rồi vào trong tim. Đầu các dây này được gắn các điện cực và được đặt tại các vị trí khác nhau trong tim, thông qua các điện cực đó, sóng điện tim tại từng vùng được ghi lại và phân tích. Thông qua các điện cực đầu dây tiếp xúc với mô tim, dùng máy kích thích tim theo chương trình nhằm tái hiện cơn tim nhanh và phát hiện các đáp ứng điện tim bất thường. Quá trình này được gọi là kĩ thuật “thăm dò điện sinh lý”. Nhờ đó, các bác sĩ đã xác định được nguyên nhân và cách thức gây tim nhanh. Cụ thể: Một dây điện cực đốt triệt được đưa vào trong tim để dò tìm vị trí mô tim bất thường, sau đó, năng lượng được phát ra từ máy phát sóng radio cao tần được truyền đến đầu điện cực này chuyển thành nhiệt lượng làm tổn thương và vô hiệu hóa mô tim bất thường đó. Thủ phạm gây bệnh là 2 đường dẫn truyền xung điện tim bất thường nối giữa tâm nhĩ và tâm thất đã bị tiêu diệt.
Tuy nhiên, đối với trẻ nhỏ, phải thận trọng cân nhắc vì lí do an toàn và chỉ nên thực hiện ở những trung tâm tim mạch nhi khoa có đầy đủ các trang thiết bị thích hợp cũng như bác sĩ chuyên khoa được đào tạo và có kinh nghiệm trong can thiệp nhịp trẻ em. Trẻ em càng nhỏ, kích thước giải phẫu mạch máu và tim càng nhỏ thì nguy cơ tổn thương càng cao khi làm can thiệp. Hơn nữa, ở trẻ em, các rối loạn nhịp trên bệnh nhi bị tim bẩm sinh, nhất là sau phẫu thuật tim cũng thường gặp, can thiệp trên những bệnh nhân này cũng khó khăn do những thay đổi về cấu trúc của hệ thống tim mạch.
BS. Nguyễn Thanh Hải (BV Nhi Trung ương)