Nguồn sử liệu qua các thư tịch cổ chỉ nhắc đến sông Tiêu Tương một cách rất khiêm tốn. Sách Đại Nam nhất thống chí chép: “Sông Tiêu Lương cũ ở địa giới phủ Từ Sơn, phát nguyên từ cái đầm lớn xã Phù Lưu huyện Đông Ngàn, chảy từ phía tây sang đông bắc qua xã Tiêu Sơn huyện Yên Phong, chuyển sang địa phận hai huyện Tiên Du và Quế Dương vào sông Thiên Đức”. Những năm gần đây, dựa vào các nguồn sử liệu và qua điền dã thực địa, một số nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cho rằng: Tiêu Tương bắt nguồn từ một nhánh sông Hồng (có tên là Hoàng Giang) đi qua Cổ Loa, Dục Tú (huyện Đông Anh, Hà Nội), Phù Lưu, Dương Lôi, Tam Sơn, Tương Giang(1), Lim, Xuân Ổ,... (tỉnh Bắc Ninh) tạo nên một dải văn hóa làng ven sông mang đặc trưng của văn hóa Kinh Bắc(2).
Một góc chùa Phật Tích: Xưa vào mùa hè, vua Lý Thánh Tông thường đi thuyền rồng từ quê theo dòng sông Tiêu Tương lên nghỉ mát và đọc kinh.
Sông Tiêu Tương, đến nay chỉ còn dấu tích trên thực địa, nhưng là dòng sông huyền thoại, đã và đang “sống” trong tâm khảm người dân Kinh Bắc, vừa như một chứng tích lịch sử quan trọng trong quá trình xây dựng nền độc lập dân tộc từ giai đoạn trước Công nguyên, vừa được nhắc đến nhiều trong các tác phẩm văn học, những chuyện kể huyền bí, những áng văn thơ và những làn điệu dân ca trữ tình, góp phần kiến tạo nên vùng văn hóa Kinh Bắc rực rỡ chảy dài suốt mấy nghìn năm lịch sử. Tiêu Tương không chỉ là một huyết mạch giao thông quan trọng của vua An Dương Vương mà còn là một hào lũy thiên nhiên che chắn, bảo vệ kinh đô Cổ Loa non trẻ của nước Âu Lạc. Hơn thế, dòng chảy Tiêu Tương là mạch nguồn văn hóa của người Việt từ kinh đô chảy đến khắp các làng quê. Sông Tiêu Tương đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình kiến tạo nên bản sắc văn hóa xứ Bắc và là một trong những yếu tố tiền đề cho sự ra đời của vùng văn hóa Kinh Bắc.
Tiêu Tương là một dòng sông tràn đầy yếu tố văn hóa, là dòng chảy của thi ca, của tình yêu con người, tình yêu đôi lứa và là nguồn cảm hứng vô tận của các văn nhân, thi sĩ đã sáng tạo ra những giá trị nhân văn qua nhiều thời đại. Tiêu biểu là Chuyện tình Trương Chi - Mỵ Nương.
Chuyện kể rằng: “Ngày xưa, có một chàng đánh cá nghèo tên là Trương Chi sống trên sông Tiêu Tương, trong một chiếc thuyền chài nhỏ. Hằng ngày, chàng vừa tung chài, kéo lưới, vừa ca hát say sưa. Gần khúc sông nơi chàng thường đánh cá có lâu đài của quan Thừa tướng. Nàng Mỵ Nương con gái quan Thừa tướng hằng ngày nghe tiếng hát của chàng mà đem lòng yêu say đắm. Cho đến một ngày, chàng Trương Chi chuyển tới đánh cá ở một khúc sông khác. Mỵ Nương vì nhớ mong tiếng hát của chàng mà sinh ốm tương tư. Thừa tướng cho mời các thầy thuốc tài giỏi trong vùng tới cứu chữa cho con gái yêu, thế nhưng chẳng thầy thuốc nào chữa khỏi được bệnh cho nàng. Biết được uẩn khúc trong lòng Mỵ Nương, quan Thừa tướng cho người tìm Trương Chi đưa về dinh của mình. Hằng ngày, Thừa tướng giao cho chàng nhiệm vụ sắc thuốc và hát cho Mỵ Nương nghe. Từ đó Mỵ Nương khỏi bệnh. Nhưng vì chàng đánh cá xấu xí và nghèo khổ nên duyên phận không thành. Chàng Trương thất vọng, lại trở về với dòng Tiêu Tương thơ mộng và thầm yêu trộm nhớ nàng Mỵ Nương xinh đẹp. Ôm mối tình vô vọng, giận cho duyên phận hẩm hiu, chàng nhảy xuống sông tự vẫn. Sau khi chết hồn chàng nhập vào cây bạch đàn. Quan Thừa tướng vô tình mua cây bạch đàn về, sai người tiện một bộ ấm chén uống trà rất đẹp. Lạ kỳ thay, mỗi khi rót nước vào chén, người ta lại thấy thấp thoáng hình bóng chàng đánh cá xấu xí trong lòng chén nước. Mỵ Nương cầm chiếc chén trên tay, cảm động vì chuyện xưa, giọt nước mắt của nàng nhỏ vào trong chén. Và, chiếc chén bỗng tan ra thành nước”(3).
Hát quan họ trên thuyền tại Hội Lim, một trong những dấu tích của dòng sông Tiêu Tương.
Theo các thư tịch cổ, Kinh Bắc là nơi dân cư đông đúc, kinh tế phát triển, giao thông thuận lợi, chủ yếu là đường thủy dựa trên hệ thống các sông ngòi ở phía Bắc sông Hồng. Nhà Hán mở con đường bộ từ Hồ Nam đến Quảng Tây và kéo dài xuống phía Nam sang đất Việt đến lưu vực sông Thương. Sau đó con đường này được kéo dài đến Long Biên, rồi đến Tống Bình (Hà Nội bây giờ). Đây chính là con đường bộ từ phương bắc sang nước ta, chạy qua đất Vũ Ninh, dựa theo bờ sông Tiêu Tương. Thời phong kiến, con đường này là con đường đi sứ giữa nước ta với Trung Quốc, được gọi là Quan lộ. Đồng thời, đây cũng là con đường quân sự, con đường giao lưu kinh tế, văn hóa quan trọng của các lộ phía bắc nước ta. Thời Pháp thuộc, Quan lộ được nắn thẳng và mở rộng thành Quốc lộ 1. Cho tới ngày nay, đây vẫn là một huyết mạch quan trọng hàng đầu trong hệ thống giao thông của nước ta. Do đó, Bắc Ninh - Kinh Bắc là vùng được tiếp cận khá sớm với văn hóa phương Bắc.
Bắc Ninh - Kinh Bắc cũng là nơi chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Chùa Dâu (Thuận Thành), chùa Phật Tích (Tiên Du), chùa Tiêu (Từ Sơn) là những chùa có rất sớm và nổi tiếng từ lâu đời. Theo Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang (bút danh của Hòa thượng Thích Nhất Hạnh - người Việt Nam đầu tiên vinh dự được đề cử nhận giải Nobel Hòa bình) thì chùa Dâu là một trong ba thánh tích Phật giáo sớm nhất ở Việt Nam và cả ở Trung Hoa, có từ những năm đầu Công nguyên(2) (hai trung tâm khác là Lạc Dương và Bành Thành ở Trung Hoa). Vào thời Lý, đạo Phật chiếm vị trí độc tôn trong xã hội nên rất nhiều chùa chiền đã được xây dựng tập trung trên đất của bộ Vũ Ninh.
Chính những đặc điểm này là yếu tố tạo nên một vùng đất “Một giỏ ông đồ, một bồ ông cống, một đống ông nghè, một bè tiến sĩ, một bị trạng nguyên, một thuyền bảng nhỡn” và hai di sản đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại là dân ca quan họ, ca trù. Bắc Ninh - Kinh Bắc cũng là một trong những kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian truyền thống: tuồng, chèo, cải lương, trống quân; tranh dân gian Đông Hồ, đồ gỗ Đồng Kỵ, đồ đồng Đại Bái, gốm Phù Lãng... Các di sản văn hóa - nghệ thuật kết tinh những đặc trưng cốt cách và tâm hồn của đất và người vùng Kinh Bắc: vừa hồn nhiên, bình dị trầm lắng nhiều tầng văn hóa dân gian, vừa lung linh, sâu sắc, sáng ngời minh triết của một nền văn hóa bác học.
(1) Tương Giang, nơi có “Tiêu Sơn cổ tự” soi bóng xuống dòng Tiêu Tương và là nơi Quốc sư Vạn Hạnh (người có công nuôi dưỡng, dạy dỗ Lý Thái Tổ) tu thiền.
(2) Theo Thông báo văn hóa dân gian 2005, NXB Khoa học xã hội, 2006.
(3) Theo Đại Nam nhất thống chí, NXB Khoa học xã hội, 1971.