Tiểu đường thai kỳ là bệnh rối loạn chuyển hóa thường gặp nhất trong thai kỳ và có xu hướng ngày càng tăng. BSCK II. Lê Thị Phương Huệ - Trưởng khoa Nội tiết BV Thanh Nhàn cho biết, đái tháo đường khi mang thai có hai loại: Một là người mẹ có sẵn bệnh nền đái tháo đường và có thai. Hai là tình trạng lượng đường trong máu tăng cao khi mang thai, được gọi là đái tháo đường thai kỳ.
Đái tháo đường thai kỳ xảy ra chủ yếu ở phụ nữ mang thai trong 3 tháng giữa đến 3 tháng cuối của thai kỳ. Bệnh hoàn toàn mất dấu hiệu sau khi người mẹ sinh con.
Trong thai kỳ, hormone nhau thai làm giảm tác dụng của insulin, khiến cơ thể mẹ bầu cần sản xuất nhiều insulin hơn để giữ đường huyết ổn định. Khi khả năng này bị vượt quá, đường trong máu sẽ tăng cao, dẫn đến đái tháo đường thai kỳ.

BSCK II. Lê Thị Phương Huệ – Trưởng khoa Nội tiết, Bệnh viện Thanh Nhàn
Đái tháo đường ảnh hưởng thế nào đến thai kỳ?
“Phụ nữ mang thai nếu mắc tiểu đường mà kiểm soát đường huyết tốt thì hoàn toàn có thể sinh con khỏe mạnh. Tuy nhiên, nếu để đường huyết cao kéo dài, không được kiểm soát, sẽ xảy ra biến chứng cho cả mẹ và thai nhi”, bác sĩ Phương Huệ lưu ý.
Với người mẹ, đường huyết cao không kiểm soát có thể dẫn tới tiền sản giật, tăng huyết áp, nhiễm toan ceton – một biến chứng nghiêm trọng có thể dẫn đến hôn mê. Với thai nhi, nguy cơ phụ thuộc vào thời điểm phát hiện bệnh. Nếu đường huyết tăng cao trong giai đoạn đầu thai kỳ, thai nhi có thể đối mặt với nguy cơ dị tật bẩm sinh, trong đó phổ biến là dị tật tim. Ngoài ra, còn có nguy cơ sảy thai hoặc thai lưu.

"Nếu để đường huyết cao kéo dài, không được kiểm soát đái tháo đường ảnh hưởng đến cả mẹ và thai nhi với những biến chứng nguy hiểm" (Ảnh minh hoạ)
Nếu tiểu đường thai kỳ xuất hiện và kéo dài đến những tháng cuối, thai nhi dễ bị macrosomia – tức thai to hơn bình thường, làm tăng nguy cơ sinh mổ, sinh khó hoặc chấn thương sản khoa như kẹt vai, gãy xương đòn. Trẻ sinh ra từ mẹ bị tiểu đường thai kỳ cũng dễ gặp các rối loạn chuyển hóa sau sinh như hạ đường huyết, hạ canxi máu, vàng da kéo dài và thậm chí là hội chứng suy hô hấp do phổi chưa trưởng thành đầy đủ.
Mặc dù vậy, theo bác sĩ Huệ, tiểu đường thai kỳ hoàn toàn có thể kiểm soát được nếu được phát hiện kịp thời. Phần lớn mẹ bầu chỉ cần thay đổi chế độ ăn uống, tăng cường vận động nhẹ nhàng và theo dõi đường huyết định kỳ. “Chỉ khi các biện pháp không dùng thuốc không hiệu quả, bác sĩ mới chỉ định dùng insulin – một loại thuốc an toàn trong thai kỳ và không gây hại cho thai nhi”.

Siêu âm giúp đánh giá sự phát triển của thai nhi và phát hiện sớm các dấu hiệu bất thường trong thai kỳ có yếu tố nguy cơ như tiểu đường thai kỳ
Ai có nguy cơ mắc đái tháo đường?
Tỷ lệ người mắc đái tháo đường đang có xu hướng tăng và trong tương lai sẽ tăng dần do số người béo phì ngày càng nhiều hơn. Những đối tượng cần thăm khám và tầm soát định kỳ để phát hiện đái tháo đường là:
- Trong gia đình có người mắc đái tháo đường
- Người có thể trạng béo phì, chỉ số BMI cao
- Người mắc các bệnh lý rối loạn chuyển hóa như rối loạn mỡ máu hay tăng huyết áp.
- Phụ nữ trên 25 tuổi, có các bệnh lý sản phụ khoa như tiền sản giật, thai lưu, khó có thai, buồng trứng đa nang, từng sinh thai to (trên 4kg),…
Đái tháo đường hay đái tháo đường thai kỳ khó phát hiện sớm, thường phát hiện thông qua các xét nghiệm. Do đó, khi phụ nữ có ý định mang thai hoặc trong quá trình mang thai cần thăm khám theo chỉ định để phát hiện sớm và điều trị nếu có. Nếu phụ nữ mang thai phát hiện đái tháo đường thai kỳ cần tuân theo đúng chỉ định của bác sĩ chuyên khoa để kiểm soát tốt đường huyết.
Hiện nay, xét nghiệm dung nạp glucose được khuyến cáo thực hiện ở tuần thứ 24–28 thai kỳ để tầm soát tiểu đường thai kỳ. Nếu có các yếu tố nguy cơ, thai phụ có thể được chỉ định kiểm tra sớm hơn. Sau khi sinh, phần lớn mẹ bầu sẽ trở về đường huyết bình thường, nhưng không nên chủ quan. Họ vẫn cần được theo dõi lại sau sinh 6–12 tuần và định kỳ vì có nguy cơ cao tiến triển thành đái tháo đường tuýp 2 trong tương lai.
“Quan trọng nhất là mẹ bầu không bỏ qua các buổi khám thai định kỳ và không nên quá lo lắng nếu được chẩn đoán. Với việc điều trị phù hợp, em bé vẫn có thể chào đời khỏe mạnh”, bác sĩ Huệ khẳng định.