Các ký sinh trùng đơn bào xâm nhiễm vào trong tế bào biểu mô ruột gây ra tiêu chảy. Bệnh gây tổn thương ở ruột non, đại tràng, đường mật, có thể dẫn đến xơ đường mật hoặc viêm túi mật.
Biểu hiện lâm sàng
KST đơn bào Cyclospora xâm nhập trong ruột. |
Đối với bệnh nhân miễn dịch bình thường, bệnh biểu hiện từ không triệu chứng tới tiêu chảy nhẹ kèm đầy hơi và trướng bụng, tiêu chảy phân nước nặng, nhiều lần. Phân có thể chứa nhầy nhưng không có máu. Các triệu chứng kèm theo gồm sốt nhẹ, mệt mỏi, chán ăn, đau bụng, nôn và đau cơ, sút cân kéo dài một vài ngày tới vài tuần.
Ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch tiêu chảy nặng có thể tới 15 lần một ngày, phân nước kiểu bệnh tả, kém hấp thu, rối loạn điện giải, sụt cân nặng, sốt, phân có nhầy, nhưng hiếm khi thấy máu. Tiêu chảy có thể tái phát hoặc kéo dài. Bệnh do nhiều loại ký sinh trùng gây ra, tùy loại mà bệnh có biểu hiện khác nhau:
Bệnh do cryptosporidium: Thời gian ủ bệnh từ 5-21 ngày. Các bào nang thải theo phân có khả năng lây nhiễm, vì vậy những bệnh nhân điều trị trong bệnh viện phải được cách ly và các biện pháp xử lý phân phải được tuân thủ chặt chẽ. Bệnh nhân AIDS có thể nhiễm bệnh ở đường tiêu hóa, đường mật, đường hô hấp, sưng hạch lympho, gan và lách to, có thể bị nhiễm bệnh nhiều hệ cơ quan, phân ít khi có hồng cầu và bạch cầu.
Bệnh do isospora: Các bào nang của I. belli có thể lây truyền trực tiếp từ người sang người qua tiếp xúc tình dục hậu môn - miệng. Thời kỳ ủ bệnh kéo dài 7-11 ngày. Bệnh gây viêm loét đại tràng xuất huyết. Tìm mầm bệnh qua xét nghiệm phân thường khó khăn do ký sinh trùng gây bệnh có thể rải rác.
Bệnh do cyclospora: Thời kỳ ủ bệnh dài 2-11 ngày. Sự lây truyền được cho là qua đường tiêu hoá. Nhiễm cyclospora xảy ra ở nhiều vùng trên thế giới, ở người du lịch, là một căn bệnh gây các vụ dịch lây truyền theo đường nước và thực phẩm. Xét nghiệm phân ướt có thể phát hiện các bào nang hoặc bằng phương pháp soi kính hiển vi huỳnh quang cực tím.
Bệnh do sarcocystis: Là bệnh nhiễm các coccidium hai vật chủ. Bệnh ở người xuất hiện dưới hai hội chứng là: một bệnh đường ruột khi người là vật chủ cuối cùng và bệnh ở cơ khi người là vật chủ trung gian. Trong thể bệnh đường ruột, các kén bào tử (sporocyst) thải theo phân người không gây bệnh trực tiếp cho người mà phải được gia súc móng guốc ăn cỏ hoặc lợn ăn vào. Người bị nhiễm bệnh khi ăn thịt gia súc hoặc thịt lợn chưa chín chứa bào nang của vi khuẩn. Các ký sinh xâm nhập vào các tế bào biểu mô ruột và chuyển dạng thành các bào nang sản sinh ra các kén bào tử thải theo phân ra ngoài. Trên lâm sàng, nhiễm bệnh ở ruột thường không có triệu chứng hoặc gây tiêu chảy nhẹ nhưng kéo dài. Chẩn đoán qua xét nghiệm phân. Người mắc thể bệnh cơ khi ăn phải kén bào tử vi khuẩn. Tại ruột, các kén bào tử giải phóng ra các thoa trùng xâm nhập thành ruột và phát tán tới các cơ vân. Sự phát tán vào cơ vân dẫn tới viêm cơ và tổ chức dưới da kéo dài vài ngày tới hai tuần với biểu hiện phù nề tại chỗ.
Điều trị và phòng bệnh
Điều trị hỗ trợ cho tiêu chảy nặng và mạn tính bao gồm bù nước và điện giải, nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch. Tùy loại ký sinh trùng mà dùng thuốc đặc trị. Trong nhiễm isospora, điều trị hiệu quả bằng các thuốc: trimethoprim và sulfamethoxazol; sulfadiazin, pyrimethamin.
Đối với các nhiễm khuẩn do E.intestinalis, nên dùng thuốc albendazol.
Các biện pháp phòng bệnh cần thực hiện giống như phòng các bệnh tiêu chảy khác, chủ yếu là thực hiện ăn chín, uống sôi. Làm giảm phơi nhiễm với các ký sinh trùng gây bệnh bằng việc hạn chế bơi lội, dầm nước ở các nguồn nước ngọt.
Đặc điểm của bệnh và mầm bệnh Nhiễm coccidium và nhiễm microsporidium là bệnh phân bố toàn cầu nhưng gặp nhiều ở các vùng nhiệt đới và những nơi điều kiện vệ sinh kém. Các vi sinh này gây tiêu chảy, viêm dạ dày, ruột nhất là ở trẻ suy dinh dưỡng. Bệnh lây lan do các bào nang truyền trực tiếp từ người này sang người khác trong gia đình, nhà trẻ, qua nước hoặc thức ăn bị nhiễm bẩn. Bào nang sau khi được nuốt vào sẽ giải phóng ra các thoa trùng (sporozoit) xâm nhập vào tế bào biểu mô ở ruột non. Các tiểu thể hoa cúc (merozoit) được giải phóng ra lại tái xâm nhập trong quá trình nhân lên vô tính trong tế bào. Cuối cùng trong giai đoạn hữu tính, các bào nang được hình thành và thải theo phân ra ngoài. Các bào nang này thích nghi khi tiếp xúc với không khí và có thể tồn tại trong môi trường ẩm vài tháng tới vài năm. Bệnh gây tiêu chảy, có tính chất tiết dịch, giảm hấp thu vitamin B12, chất béo... Tổn thương ruột trong thể bệnh nặng làm cho các lông mao của ruột trụi hoặc teo đi và tăng sinh các khe nhú. Các ký sinh đơn bào này không gây loét và không xâm nhập sâu. |
ThS. Nguyễn Thế Minh