Tiếp tục đánh giá mặt tích cực, hạn chế của thuỷ điện

04-11-2020 17:23 | Thời sự

SKĐS - Tiếp tục chương trình phiên thảo luận về kinh tế - xã hội, chiều 4/11, các đại biểu Quốc hội đã nêu nhiều vấn đề liên quan đến an toàn thông tin, thông tin mạng; việc thực hiện các chính sách đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; xã hội hóa y tế; chăm sóc người cao tuổi; đầu tư phát triển văn hóa; đầu tư nguồn lực cho công tác phòng chống thiên tai và tái thiết sau thiên tai; bảo đảm an toàn hồ đập; bảo vệ phát triển rừng; đầu tư nâng cấp đội tàu đánh bắt xa bờ, hạ tầng nghề cá, khu neo đậu tàu thuyền; phát triển khu nông nghiệp công nghệ cao; vấn đề sáp nhập, sắp xếp, điều chỉnh các đơn vị hành chính;... Cũng tại phiên thảo luận, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đã giải trình các vấn đề liên quan đến thủy điện, an toàn hồ đập... đang thu hút sự chú ý của các đại biểu và dư luận.

Sạt lở đất gắn chặt với yếu tố dị thường, cực đoan của thời tiết

Phát biểu, giải trình thêm đối với các ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội đề cập đến phát triển thuỷ điện hiện nay, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết: Cả nước hiện có 429 hồ đập thuỷ điện với các quy mô khác nhau. Theo đó, năng lượng thuỷ điện là nguồn năng lượng tái tạo rất quan trọng, ô nhiễm ít, khí thải nhà kính gần như không có. Vì vậy, quản lý và khai thác nguồn năng lượng tái tạo này thế nào để giảm thiểu tác động đến môi trường, phát huy tối đa hiệu quả là rất quan trọng.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết, từ lâu phát triển thuỷ điện đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của Quốc hội, Chính phủ trong hoạt động giám sát và chỉ đạo điều hành. Nhất là sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết 62/NQ-QH13 năm 2013 về tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thuỷ điện và Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ ban hành chương trình hành động của Chính phủ về thực hiện nghị quyết này của Quốc hội. Theo đó, công tác về phát triển thuỷ điện và quản lý an toàn hồ thuỷ điện và vận hành các công trình thuỷ điện đã được bảo đảm hơn.

Hằng năm đều có các cuộc kiểm tra giám sát chặt chẽ, đầy đủ theo đúng Nghị quyết 62 của Quốc hội về mức độ an toàn của các hồ đập thuỷ điện, sự vận hành của hệ thống các hồ đập thuỷ điện, nhất là sự tham gia của các hồ đập này trong phòng chống bão lũ, thiên tai tại địa phương. Đồng thời, thực hiện kiểm soát chặt chẽ không cho thuỷ điện xâm dụng đến rừng tự nhiên, từ 2016, Bộ Công Thương đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương không bổ sung bất kỳ một công trình thuỷ điện nào nếu sử dụng đất rừng tự nhiên. Diện tích chiếm dụng đất trên các dự án được bổ sung quy hoạch đã giảm mạnh, chỉ còn 1,9 ha cho 1 MW điện. Điều này cho thấy chúng ta thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc theo chỉ đạo của Quốc hội.

Về đánh giá hiệu quả của thuỷ điện nhỏ và vừa, Bộ trưởng cho biết: Đã đưa ra khỏi quy hoạch của thuỷ điện 472 dự án, trong đó có 8 dự án thuỷ điện bậc thang, 213 điểm tiềm năng cho phát triển thuỷ điện.

Liên quan đến vận hành của hồ đập thuỷ điện và an toàn hồ đập, có hàng loạt công cụ pháp lý với nhiều đạo luật để điều chỉnh các hoạt động của thuỷ điện. Chính phủ mới ban hành Nghị định 114/NĐ-CP năm 2018 về quản lý an toàn đập và hồ chứa nước. Theo đó, các bộ ngành đang tổ chức hướng dẫn thi hành để bảo đảm an toàn của hồ đập thuỷ điện, thuỷ lợi, giảm thiểu tác động tiêu cực trong phòng chống bão lụt, thiên tai. Đồng thời, đã phân cấp và xác định rõ trách nhiệm, quy trình để bảo đảm yếu tố này. Yêu cầu các chủ hồ đập phối hợp với chính quyền địa phương thiết lập các hệ thống giám sát, quan trắc tự động về khí tượng thuỷ văn, đo mưa, giám sát hệ thống vận hành của các nhà máy thuỷ điện căn cứ trên lượng mưa về nhà máy và lượng xả nước về hạ du, có phương án phòng chống bão lụt tại địa phương, bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân.

Về hiệu quả và nguy cơ đặt ra trong việc xả lũ, Bộ trưởng cho biết, công cụ pháp lý để quản lý tương đối đầy đủ, tuy nhiên cũng không tránh khỏi ở một số địa phương chủ hồ đập thực thi không nghiêm như thuỷ điện Hố Hô năm 2016 xả lũ gây ngập lụt hạ du đã bị thu giấy phép tham gia hoạt động điện, phạt nặng, khắc phục triệt để mới cho tham gia thị trường điện.

Đề cập đến sự quan tâm của nhân dân và dư luận xã hội về thuỷ điện ảnh hưởng như thế nào đến bão lụt, nguy cơ sạt lở đất và động đất, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nêu rõ: Qua khảo sát thực tế nghe báo cáo của các địa phương và đánh giá của các nhà chuyên môn và của cơ quan chức năng, thì trước mắt, phải khẳng định những câu chuyện sạt lở đất mà gây ra những tổn hại rất nghiêm trọng về người và của tại Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam gắn chặt với những yếu tố dị thường và cực đoan của thời tiết.

Bộ trưởng dẫn chứng: Theo con số từ các báo cáo của cơ quan chức năng, lượng mưa tại Quảng Bình, Quảng Trị cũng như của Quảng Nam, Quảng Ngãi vào thời điểm này là rất lớn, đến mức độ hàng nghìn mét khối giây. Ví dụ như tại Trà My, lượng mưa lên tới hơn 2.500 m3 của cả thời kỳ; thời gian hoàn lưu bão của cơn bão số chín kéo dài đến 6 tiếng đồng hồ. Đây là những nguy cơ rất lớn và đã tạo ra tác động đến cấu tạo địa chất cũng như các điều kiện đất đai và các địa phương và gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng.

Đối phó với thiên tai, bão, lũ là một câu chuyện mới

“Tất nhiên, những câu chuyện liên quan đến tác động của vấn đề mất rừng đầu nguồn và thảm thực vật rồi mất độ kết dính của đất là những vấn đề do tác động của con người thông qua các dự án thủy điện, cũng như các dự án khác là những vấn đề chúng ta không thể phủ nhận trong một mức độ chừng mực nhất định. Tuy nhiên, do biến đổi khí hậu và những yếu tố rất cực đoan của thời tiết, chúng tôi cho rằng, câu chuyện để đối phó với thiên tai, bão, lũ là một câu chuyện mới.

Chúng ta phải đặt công tác nghiên cứu khoa học và đưa ra những cảnh báo một cách cụ thể hơn nữa. Đặc biệt là bản đồ của các khu vực sụt lún cũng như các nguy cơ biến đổi cực đoan của khí hậu là vấn đề rất lớn mà chúng ta phải dự báo cho công tác phòng, chống thiên tai cũng như là về phát triển kinh tế xã hội”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nói.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cũng cho biết tới đây, Bộ Công Thương sẽ làm việc với các địa phương và các bộ, ngành để nghiên cứu cụ thể, đánh giá về những mặt còn hạn chế, những mặt tích cực, để từ đó sẽ có tham mưu chính sách với Chính phủ để tiếp tục siết chặt quản lý trong phát triển thủy điện, làm sao để hạn chế tối đa những tác động tiêu cực nếu có và đồng thời tiếp tục khai thác tốt những cái nguồn tài nguyên của đất nước.


Dương Tuấn
Ý kiến của bạn