Bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục. Đây là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu (tên khoa học là Corynebacterium diphtheria) gây ra.
Những ai dễ mắc bệnh bạch hầu?
Ai cũng có thể mắc bạch hầu nếu có tiếp xúc với người bị nhiễm bạch hầu, đi du lịch đến các vùng dịch tễ của bệnh bạch hầu nhưng chưa được tiêm phòng vaccine dễ mắc bệnh hơn.
Đối với trẻ sơ sinh có miễn dịch thụ động từ mẹ truyền sang con nên không mắc bệnh nhưng miễn dịch bảo vệ này sẽ mất đi khi trẻ 6 tháng – 1 tuổi nên trẻ sẽ có nguy cơ mắc bệnh nếu không tiêm vaccine. Sau khi mắc bệnh sẽ có miễn dịch suốt đời tuy nhiên với những nhóm người suy giảm miễn dịch tỉ lệ tái nhiễm bệnh khoảng 2 – 5%.
Miễn dịch bảo vệ sau tiêm vaccine thường kéo dài khoảng 10 năm, hiệu quả bảo vệ của vaccine lên đến 97% nhưng giảm dần theo thời gian, do vậy nếu không tiêm nhắc lại vẫn có thể mắc bệnh bạch hầu.
Biểu hiện bạch hầu
Bệnh Bạch hầu thường khởi đầu như một đợt cảm lạnh thông thường, viêm họng, viêm amidan, hay viêm thanh quản, và đôi khi bệnh này cũng biểu hiện như một bệnh nhiễm trùng da.
Người bệnh sẽ bị viêm họng, mũi, thanh quản. Họng đỏ, nuốt đau. Da xanh, mệt, nổi hạch ở dưới hàm. Khi khám thấy có giả mạc. Giả mạc bạch hầu thường trắng ngà hoặc màu xám dính chặt vào xung quanh tổ chức viêm, nếu bóc ra sẽ bị chảy máu. Ca bệnh xác định chẩn đoán nhờ phân lập vi khuẩn bạch hầu dương tính từ mẫu bệnh phẩm lâm sàng lấy từ mô bệnh.
Biến chứng nguy hiểm của bệnh bạch hầu
Tất cả các biến chứng của bệnh bạch hầu kể cả tử vong đều là hậu quả của độc tố. Biến chứng thường gặp nhất trong bệnh bạch hầu là viêm cơ tim và viêm dây thần kinh.
Biến chứng viêm cơ tim có thể xảy ra trong giai đoạn toàn phát của bệnh hoặc cũng có thể xảy ra chậm vài tuần sau khi bệnh đã khỏi. Khi viêm cơ tim xuất hiện sớm trong những ngày đầu của bệnh, tiên lượng thường rất xấu, tỉ lệ tử vong rất cao.
Biến chứng viêm dây thần kinh thường ảnh hưởng đến dây thần kinh vận động và thường hồi phục hoàn toàn nếu bệnh nhân không tử vong vì biến chứng khác. Liệt màn khẩu cái (màn hầu) thường xuất hiện vào tuần thứ ba của bệnh. Liệt các dây thần kinh vận nhãn, cơ chi và liệt cơ hoành có thể xảy ra vào tuần thứ năm của bệnh. Viêm phổi và suy hô hấp có thể xuất hiện do hậu quả của liệt cơ hoành.
Các biến chứng khác có thể xảy ra như viêm kết mạc mắt hoặc suy hô hấp do tắc nghẽn đường hô hấp có thể xảy ra ở trẻ em, đặc biệt là nhũ nhi. Tử vong vào khoảng 5 đến 10% có thể tăng cao đến 20% ở trẻ em dưới 5 tuổi và người lớn trên 40 tuổi.
Tiêm ngừa vaccine bạch hầu cho thai phụ có an toàn không?
Phụ nữ mang thai sức đề kháng giảm nên khá nhạy cảm với bệnh và khi đó nguy hiểm cho thai nhi. Vì vậy, việc tiêm ngừa là cần thiết để bảo vệ cho cả mẹ và bé. Theo khuyến cáo nên tiêm ngừa bạch hầu - uốn ván- ho gà cho tất cả các thai phụ cho dù tiền sử trước đây đã tiêm.
Vaccine 3 trong 1 được sản xuất từ độc tố bạch hầu bất hoạt, độc tố uốn ván giảm độc lực và vô bào ho gà. Vì vậy vaccine 3 trong 1 này không ảnh hưởng đến thai nhi. Không dùng vaccine được sản xuất từ virus giảm độc lực như bại liệt, sởi - quai bị - rubella, thủy đậu trong thai kỳ.
Bạch hầu - uốn ván - ho gà có thể được tiêm an toàn trong suốt thai kỳ. Tại Hoa Kỳ, vaccine này được khuyến cáo tiêm khoảng 27 - 36 tuần tuổi thai để bé được bảo vệ trong thời gian đầu sau sinh. Nếu thai phụ được tiêm trước tuần 27 không cần tiêm lại trong khoảng 27 - 36 tuần.
Các thành viên trong gia đình và kể cả người chăm sóc bé nên được tiêm ngừa vaccine bạch hầu - ho gà - uốn ván nếu trước đó chưa tiêm. Lý tưởng, họ nên được tiêm tối thiểu 2 tuần trước khi tiếp xúc với bé sơ sinh.
Nếu thai phụ chưa từng được tiêm vaccine bạch hầu - ho gà - uốn ván trước đây và trong suốt thai kỳ thì nên tiêm ngay sau sinh.
Bệnh bạch hầu có thể dự phòng bằng cách nào?
Để phòng bạch hầu cần thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi; giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày; hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh.
Đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng. Người có dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu phải được cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời. Người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc phòng và tiêm vaccine phòng bệnh theo chỉ định và yêu cầu của cơ quan y tế.
Bệnh bạch hầu có thể phòng ngừa được bằng biện pháp tiêm phòng vaccine. Tại Việt Nam hiện nay không có vaccine riêng lẻ phòng bệnh bạch hầu, chỉ có những vaccine phối hợp trong đó có thành phần kháng nguyên bạch hầu như:
- Vaccine 3 trong 1 phòng bệnh bạch hầu – uốn ván – ho gà.
- Vaccine 4 trong 1 phòng bệnh bạch hầu – uốn ván – ho gà – bại liệt.
- Vaccine 5 trong 1 phòng bệnh bạch hầu – uốn ván – ho gà – bại liệt – viêm màng não mủ/viêm phổi do vi khuẩn HiB.
- Vaccine 6 trong 1 phòng bệnh bạch hầu – uốn ván – ho gà – bại liệt – viêm màng não mủ/viêm phổi do vi khuẩn HiB – Viêm gan B.
Tóm lại, để bảo vệ sức khỏe của mẹ và bé tránh những biến chứng do bệnh bạch hầu gây nên, các thai phụ cần giữ vệ sinh cá nhân tốt, thường xuyên rửa tay, tránh tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh và tiêm ngừa bệnh theo đúng khuyến cáo của cán bộ y tế. Không quá lo lắng, không tự ý dùng thuốc và tiêm bất kỳ loại thuốc gì khi chưa có chỉ định của bác sĩ.
Thông tin từ Sở Y tế Thanh Hóa cho biết, trên địa bàn huyện Mường Lát, Thanh Hóa mới phát hiện một bệnh nhân mắc bạch hầu. Hiện, công tác truy vết, khoanh vùng, khử khuẩn đang được các cơ quan chức năng khẩn trương triển khai.
Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) tỉnh Thanh Hóa, bệnh nhân được xác định mắc bệnh bạch hầu là chị P.L.M. (trú tại khu phố Đoàn Kết, thị trấn Mường Lát, huyện Mường Lát).
Ngày 5/8, CDC tỉnh Thanh Hóa nhận được thông tin từ Khoa Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa về 1 trường hợp nghi mắc bệnh bạch hầu đang điều trị tại khoa. CDC đã tiến hành lấy mẫu bệnh phẩm để xét nghiệm. Kết quả nhuộm soi có hình ảnh vi khuẩn bạch hầu và kết quả nuôi cấy (+).
Đồng thời CDC cử tổ công tác lên phối hợp với Trung tâm Y tế huyện Mường Lát tiến hành điều tra dịch tễ của bệnh nhân tại khu phố Đoàn Kết, thị trấn Mường Lát, huyện Mường Lát.
Theo kết quả điều tra dịch tễ, ngày 1/8, bệnh nhân có biểu hiện đau rát họng, ở nhà dùng thuốc không đỡ. Ngày 4/8, bệnh nhân đến phòng khám tư nhân và được tư vấn đến Bệnh viện Đa khoa huyện Mường Lát cùng ngày với các triệu chứng sốt nhẹ, đau rát họng, nuốt vướng, niêm mạc họng đỏ xung huyết. Amidan 2 bên sưng nề đỏ, có nhiều giả mạc trắng bám trên bề mặt Amidan.
Bệnh nhân được chẩn đoán nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu và được chuyển lên Khoa Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa cùng ngày.
Tại đây, kết quả thăm khám bệnh nhân có các triệu chứng như: Đau rát họng, không sốt, không ho, không khó thở; vùng lưỡi gà và thành sau họng có nhiều giả mạc màu trắng ngà, bóng, dai, dính chặt; kết quả nhuộm soi hình ảnh vi khuẩn bạch hầu; kết quả nuôi cấy (+). Bệnh nhân được chẩn đoán là bạch hầu và đang mang thai 8 tháng.
Trong vòng 14 ngày trước khởi phát bệnh, bệnh nhân không đi đâu ra khỏi địa phương. Gia đình không ai mắc bệnh giống bệnh nhân.