Sự ra đời của kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) được xem như là một trong những cứu cánh cho các trường hợp vô sinh do bất thường tinh trùng. Mặc dù số trẻ sinh ra từ các chu kỳ ICSI ngày càng tăng, tính an toàn của kỹ thuật vẫn còn là một mối bận tâm của nhiều nhà khoa học.
Quy trình tiêm tinh trùng vào noãn.
Những trường hợp nào áp dụng ICSI?
Số liệu y văn cho thấy, vấn đề vô sinh nam ngày càng lớn, có thể do cộng hưởng của nhiều nguyên nhân. Tình trạng này, cùng với việc ngày càng được mở rộng về chỉ định đã làm cho ICSI trở thành một kỹ thuật phổ biến và quan trọng nhất trong hỗ trợ sinh sản hiện nay. Một trong những lợi điểm của ICSI là cho dù chất lượng tinh trùng bất thường đến đâu, miễn là có một tinh trùng sống là thụ tinh có thể xảy ra, phôi có thể hình thành và thai kỳ được ghi nhận. Do đó, ICSI hiện nay được xem là điều trị chuẩn có hiệu quả cho những trường hợp bất thường tinh trùng nặng. Bên cạnh đó, các trường hợp tinh trùng từ phẫu thuật trên những bệnh nhân không tinh trùng cũng có thể được sử dụng để thụ tinh với noãn một cách có hiệu quả thông qua ICSI. ICSI cũng được báo cáo áp dụng cho những trường hợp bất thường tinh trùng nhẹ. Nhiều tác giả cho rằng ICSI nên được thực hiện thường quy trên các bệnh nhân đáp ứng kém với kích thích buồng noãn để hạn chế nguy cơ thất bại thụ tinh hay thụ tinh thấp. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp cần kết hợp làm một số xét nghiệm chẩn đoán, ICSI có thể được chỉ định. Trong kỹ thuật chẩn đoán di truyền tiền làm tổ, khi được thực hiện bằng PCR thì noãn nhất thiết phải được thụ tinh bằng kỹ thuật ICSI để hạn chế nguy cơ lây nhiễm ADN từ các tế bào quanh noãn hay tinh trùng.
Ngoài ra, số liệu cho thấy có khoảng 40 triệu người đang bị nhiễm HIV, trong đó, 75% đang trong độ tuổi sinh sản, do đó, việc có con là một nhu cầu có thực trong các trường hợp này. Việc hạn chế lây nhiễm cho con, nhất là trong trường hợp người vợ âm tính với HIV là một yêu cầu quan trọng trong điều trị. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy ICSI là một biện pháp tốt để điều trị có thai trong những trường hợp này.
Tính an toàn của phương pháp ICSI
Mặc dù số trẻ sinh ra từ các chu kỳ ICSI ngày càng tăng sau hơn 20 năm phát triển, tính an toàn của kỹ thuật vẫn còn là một mối bận tâm của nhiều nhà khoa học. Về mặt lý thuyết, khi các rào cản tự nhiên không còn, bất kỳ một tổn thương trong cấu trúc của tinh trùng cũng có thể được truyền qua trẻ làm ảnh hưởng đến hình thể và sự phát triển của trẻ sau này. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu gần đây trên 13.745 trẻ sinh ra từ các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, số liệu cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ dị tật bẩm sinh ở các nhóm trẻ sinh ra từ thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển, ICSI với tinh trùng từ tinh dịch và ICSI với tinh trùng phẫu thuật. Bên cạnh đó, khi khảo sát trẻ ra đời từ các chu kỳ ICSI có tuổi từ 5-12, kết quả cho thấy nhóm trẻ này có các chỉ số phát triển về thể chất và tinh thần bình thường.
Sự ra đời của kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn được xem là một cuộc cách mạng trong điều trị vô sinh. Sau hơn 20 năm phát triển, ICSI ngày càng được áp dụng rộng rãi, cả về số chu kỳ thực hiện cũng như số trung tâm triển khai. Nhiều yếu tố được cho là có ảnh hưởng đến kết quả của một chu kỳ điều trị với ICSI, nhưng gần đây, vai trò của việc chọn lựa một tinh trùng “tốt” đang ngày càng được quan tâm. Mặc dù còn cần theo dõi thêm trong thời gian dài hơn, với số liệu đầy đủ hơn, nhưng các số liệu lớn hiện nay đều cho thấy ICSI là một kỹ thuật an toàn.
Năm 1992, trường hợp đầu tiên ra đời từ kỹ thuật ICSI được báo cáo đã mở ra một kỷ nguyên mới của điều trị vô sinh. Với ICSI, chỉ cần 1 tinh trùng là đủ để có thể thụ tinh với noãn, nhờ đó, rất nhiều trường hợp vô sinh đã được điều trị thành công.
Số liệu cho thấy, từ khi ICSI ra đời, nhu cầu xin tinh trùng để điều trị đã giảm đáng kể và có đến trên 95% các trường hợp vô sinh nam có thể có con của chính mình. Tại các trung tâm IVF lớn trên thế giới, số chu kỳ thực hiện ICSI chiếm tỷ lệ trên 70%. Ngày càng nhiều trung tâm thực hiện ICSI để thụ tinh trứng cho toàn bộ các chu kỳ điều trị, nhằm giảm thiểu nguy cơ không thụ tinh hoàn toàn. Báo cáo của Hiệp hội Phôi học và Sinh sản người châu Âu cho thấy xu hướng ứng dụng ICSI ngày càng tăng, chỉ trong vòng 5 năm, tỷ lệ áp dụng từ 49% đã tăng lên 62%.
BS. Đặng Quang Vinh