Bé P được nhập viện vào viện ngày 25/3, với nhiều vết bỏng trên cơ thể. Bệnh nhi P được chẩn đoán bỏng độ II-III ở các vị trí: lưng, cánh cẳng tay 2 bên, đùi 2 bên và 2 bên mông (Diện tích bỏng khoảng 30% cơ thể). Gia đình trẻ cho biết, khi lấy nước tắm đã đổ nước sôi vào chậu trước khi đổ nước lạnh, trẻ hiếu động đã ngã vào chậu nước gây bỏng nhiều chỗ. Bé đã được các bác sĩ khoa Chấn thương chỉnh hình Bỏng, BVĐK tỉnh Tuyên Quang xử trí theo phác đồ.
Theo thống kê của Bệnh viện đa khoa tỉnh Tuyên Quang, chỉ tính từ đầu năm đến nay bệnh viện đã tiếp nhận 45 ca đến khám do bỏng, trong đó có 28 ca phải nằm điều trị nội trú.
Hiện tại, khoa Chấn thương chỉnh hình của Bệnh viện đang điều trị 8 trường hợp bị bỏng do nước sôi, chủ yếu là trẻ nhỏ dưới 5 tuổi. Ở tuổi này trẻ rất hiếu động và chưa ý thức được nguy hiểm.
Phần diện tích bị bỏng của bé P khá rộng, bé đang được điều trị tại BVĐK tỉnh Tuyên Quang
Thạc sỹ - Bác sỹ Quàng Văn Hải, Phó trưởng khoa Chấn thương chỉnh hình (CTCH), Bệnh viện đa khoa tỉnh Tuyên Quang cho biết: Các ca bỏng nặng thường phải điều trị lâu dài và tốn rất nhiều chi phí. Có nhiều tác nhân gây bỏng cho trẻ nhi, thường gặp nhất là bỏng do nước sôi. Ngoài ra có thể là do dầu mỡ sôi, bỏng lửa hoặc điện, hóa chất.
Tổn thương bỏng rất đa dạng ở nhiều vị trí như: chân, lưng, cánh cẳng tay, đặc biệt là bàn tay, ảnh hưởng rất nhiều đến sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhi... để lại những di chứng nặng nề. Ngoài ra các vị trí bỏng ở vùng mặt hoặc bộ phận sinh dục cũng rất nguy hiểm vì ảnh hưởng đến thẩm mỹ và chức năng sinh sản sau này của trẻ.
Bác sỹ hướng dẫn cách sơ cứu bỏng như sau:
Khi bị bỏng nước sôi việc đầu tiên các gia đình cần làm là phải nhanh chóng bộc lộ vị trí bị bỏng, đưa vết bỏng vào dưới vòi nước hoặc vào chậu nước mát và sạch để giảm nhiệt độ bỏng, giảm đau, giảm phù nề, viêm nhiễm và giảm độ sâu của vết thương, hạn chế tổn thương lan rộng.
Nếu không, có thể dội nước mát sạch lên đó vài lần. Ngay cả khi da không còn tiếp xúc với tác nhân gây bỏng, nhiệt tích tụ ở vết bỏng vẫn tiếp tục gây tổn thương sâu hơn. Đây là biện pháp quan trọng số một giúp giảm thiểu mức độ tổn thương.
Tuyệt đối không dùng nước đá lạnh để làm mát vì có thể gây tổn thương da. Không áp dụng các biện pháp truyền miệng như phun rượu, bôi kem đánh răng, lòng trắng trứng lên vết bỏng để tránh làm gia tăng tổn thương. Nếu có thuốc xịt bỏng thì nhanh chóng xịt cho trẻ.
Sau đó bảo vệ vết thương để tránh tổn thương và nhiễm trùng thêm bằng cách: dùng bằng gạc sạch hoặc vải mỏng băng nhẹ nhàng che phủ vết bỏng, tránh băng quá chặt làm tổn thương tại vết bỏng nặng thêm. Không được tiếp xúc trực tiếp với vết bỏng để tránh nhiễm khuẩn.
Trong trường hợp bé hoảng loạn, cha mẹ nên động viên, trấn an bé. Nếu trẻ đau nhiều thì dùng thuốc giảm đau.
Khi trẻ bị bỏng, nếu vùng bỏng lớn thì không nên cởi bỏ quần áo khiến trẻ bị lột da vùng bỏng. Thay vào đó, nên nhanh chóng dùng kéo cắt áo quần ra khỏi vết bỏng, tránh việc áo quần dính chặt vào vết bỏng khiến vết bỏng bị đau rát, dễ viêm nhiễm. Nhẹ nhàng tháo bỏ các tư trang cá nhân, vòng lắc hoặc đồng hồ, giày dép … trước khi vết bỏng bị sưng nề.
Bỏng nước sôi cần được sơ cứu đúng ngay từ nhưng giây phút đầu tiên, bởi nếu xử trí sai thì về sau có thể khiến vết bỏng sâu hơn, gây nhiễm trùng, lâu lành và để lại các di chứng như sẹo xấu, co rút cơ… thậm chí để lại những thương tật vĩnh viễn cho người bệnh. Sau sơ cứu ban đầu, trẻ cần được đưa đến các cơ sở y tế gần nhất để được cấp cứu và điều trị kịp thời, hạn chế tối đa các biến chứng. Tuyệt đối không nên tự ý sử dụng thảo dược (không rõ nguồn gốc) để cấp cứu và tự “chữa” bỏng cho trẻ.
Đối với các trường hợp bị bỏng nặng, có chỉ định điều trị nội trú, bệnh nhi sẽ được xử lý chống sốc, bù nước điện giải, điều trị vết bỏng bằng các loại thuốc bôi, đắp đặc hiệu chuyên trị bỏng. Nếu bỏng sâu, sẽ cần cắt lọc các tổ chức hoại tử và ghép da. Song song với điều trị, cần thực hiện phục hồi chức năng cho bệnh nhi để hạn chế những di chứng của sẹo.