Thường sơn, thục tất: vị thuốc trị sốt rét

SKĐS - Thường sơn (Radix Dichroae) là rễ khô của cây thường sơn (Dichroa febrifuga Lour.), thuộc họ thường sơn (Saxifragaceae).

Thục tất là mầm rễ non của cây thường sơn. Thục tất có tác dụng như thường sơn, nhưng mạnh hơn để chữa sốt rét thể rét nhiều nóng ít.

Thường sơn chứa alcaloid (febrifugin, isofebrifugin...), umbeliferon. Theo Đông y, thường sơn vị đắng, tính hàn, có ít độc. Vào kinh phế, tâm và can. Có tác dụng gây thổ ra đờm dãi, chữa sốt rét. Liều dùng: 6-12g. Tẩm rượu sao sẽ giảm tác dụng phụ gây nôn của thường sơn. Nếu muốn gây nôn thì dùng sống.

Thường sơn, thục tất: vị thuốc trị sốt rétCây thường sơn.

Một số bài thuốc có thường sơn:

Chữa sốt rét: Các trường hợp sốt rét mới hay đã lâu.

Bài 1 - Chè thuốc thất bảo: thường sơn 12g, thảo quả 12g, hậu phác 12g, thanh bì 12g, hạt cau 12g, trần bì 12g, cam thảo 4g. Các vị sắc với nửa phần nước và nửa phần rượu để uống. Chữa sốt rét mà thiên về đàm thấp (đờm ướt, rớt lỏng).

Bài 2: thường sơn 63g, ô mai thán 63g. Thường sơn ngâm vào nước gừng trong 3 ngày, vớt lên phơi khô, sấy khô, nghiền chung với ô mai thán thành bột. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 8g, uống liền trong 3 ngày. Chữa sốt rét liên miên không dứt.

Bài 3: thường sơn 12g, binh lang 8g, bối mẫu 8g, gừng nướng 5 lát, thảo quả 8g, tri mẫu 8g, ô mai 8g, đại táo 3 quả. Sắc uống trước khi lên cơn sốt 2-3 giờ. Tác dụng khu đàm tiệt ngược. Trị sốt rét lâu ngày không khỏi, sốt khá cao, miệng khát lưỡi khô.

Bài 4: thường sơn 12g, tri mẫu 8g, gừng nướng 5 lát, thảo quả 8g, cao lương khương 8g, chích thảo 6g, ô mai nhục 8g, đại táo 3 quả. Sắc uống trước khi lên cơn sốt 2-3 giờ. Tác dụng: thanh nhiệt tán kết, khử đờm, chặn cơn sốt rét. Trị sốt rét lâu ngày không khỏi, sốt khá cao, miệng khát lưỡi khô.

Bài 5 - Tiệt ngược thường sơn ẩm: thường sơn 12g, binh lang 8g, thảo quả 8g, tri mẫu 8g, ô mai 8g, xuyên sơn giáp 8g, chích thảo 6g. Sắc uống trước khi lên cơn sốt 2-3 giờ. Tác dụng khu đàm tiệt ngược. Trị sốt rét lâu ngày không khỏi, sốt khá cao, miệng khát lưỡi khô.

Gây thổ ra đờm, chữa đầy trướng. Dùng cho các chứng đờm dãi tích đọng lâu ngày, muốn thổ ra không được, tức ngực: thường sơn 20g, cam thảo 6g. Các vị sắc với nước, thêm mật vào, uống lúc ấm để gây nôn ra đờm.

Kiêng kỵ: Người yếu mệt uống phải cẩn thận. Phụ nữ có thai cấm uống. Thường sơn kỵ với hành củ nên khi uống thuốc có thường sơn kiêng ăn hành.


TS. Nguyễn Đức Quang
Ý kiến của bạn