Tuy nhiên, khi dùng các thuốc này có thể làm tăng tính nhạy cảm với ánh sáng và vấn đề ảnh hưởng đến nguy cơ gây ung thư da như thế nào hiện vẫn còn ít được lưu ý.
Vai trò của thuốc lợi tiểu thiazide
Ở người bị tăng huyết áp, lượng muối và nước dư thừa trong cơ thể sẽ khiến thành động mạch chịu thêm nhiều áp lực. Thuốc lợi tiểu sẽ tác động đến thận nhằm tăng lượng muối và nước thải ra khỏi cơ thể qua đường tiểu. Ngoài ra, thuốc lợi tiểu cũng giúp thành động mạch co giãn nhiều hơn, máu lưu thông một cách dễ dàng. Nhờ 2 yếu tố trên, áp lực lên động mạch sẽ giảm xuống đáng kể, đưa mức huyết áp về ngưỡng an toàn. Một số nghiên cứu còn cho thấy, thuốc lợi tiểu bổ trợ rất tốt cho các loại thuốc điều trị tăng huyết áp khác như thuốc ức chế beta, chất ức chế men chuyển angiotensin... thông qua việc loại trừ tác dụng phụ thường thấy là tình trạng giữ nước trong cơ thể của các loại thuốc trị huyết áp này.
Thuốc lợi tiểu thường được kê đơn như lựa chọn đầu tiên hoặc một thành phần trong thuốc phối hợp để giúp kiểm soát mức huyết áp hiệu quả nhất. Trong đó, nhóm thiazide được các bác sĩ ưu tiên sử dụng trong điều trị tăng huyết áp phổ biến nhất. Bởi thuốc không chỉ giúp đào thải muối và nước ra khỏi cơ thể mà còn có tác dụng giãn mạch để nâng cao hiệu quả hạ huyết áp. Những thuốc điển hình trong nhóm này bao gồm hydrochlorothiazide, chlorothiazide, metolazone và indapamide...
Mặc dù vậy, thuốc cũng có nhiều tác dụng phụ. Mới đây, các nhà khoa học đã công bố khả năng gây ung thư da cao do thuốc làm tăng nhạy cảm ánh sáng.
Thuốc lợi tiểu làm tăng tính nhạy cảm với ánh sáng.
Thuốc làm tăng nhạy cảm ánh sáng
Ung thư da là bệnh da ác tính rất phổ biến, ước tính có khoảng 1/5 người Mỹ sẽ phát triển ung thư da trong cuộc đời của họ. Các nghiên cứu đã chứng tỏ sự nhạy cảm ánh sáng do thuốc gây ra cho da khi tiếp xúc với bức xạ tia cực tím (UV) sẽ kích hoạt phản ứng bất thường của da và làm tăng nguy cơ ung thư da. Đã có bằng chứng cho thấy việc sử dụng một số thuốc lợi tiểu nhạy cảm với ánh sáng có thể liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc ung thư biểu mô tế bào vảy, u hắc tố ác tính, tăng nhẹ nguy cơ ung thư biểu mô tế bào đáy.
Mặc dù cơ chế chính xác của mối liên quan giữa thiazide và ung thư da vẫn chưa rõ ràng nhưng các loại thuốc có tác dụng kích thích quang hóa được cho là có vai trò chính. Thiazide là thuốc có nguồn gốc từ sulfonamid có thể gây ra phản ứng nhạy cảm ánh sáng. Bức xạ UV gây ra sự phân ly của nhóm thế clo trong cấu trúc hóa học của thiazide gây ra phản ứng gốc tự do và sự hình thành của ROS làm tổn hại cho màng lipid và DNA. Ngoài ra, một nghiên cứu thực nghiệm gần đây đã chứng tỏ hydrochlorothiazide hoặc thuốc kết hợp hydrochlorothiazide đã tăng cường đáng kể sự phá hủy DNA do tia UV-A gây ra bằng cách kích thích sản xuất thymine-thymine và cyclobutane pyrimidine làm tổn thương phân tử và tế bào dẫn đến ung thư da.
Giả thuyết nhạy cảm ánh sáng được hỗ trợ thêm bằng các quan sát lâm sàng trước đây của bệnh nhân vẩy nến được điều trị bằng liệu pháp quang hóa Psoralens và UV-A (PUVA). Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng sự nhạy cảm ánh sáng do thuốc gây ra cho da và sau đó tiếp xúc với bức xạ UV sẽ làm tăng nguy cơ ung thư da. Nguy cơ gia tăng này rõ rệt nhất đối với ung thư biểu mô tế bào vảy (SCC) và có liên quan mạnh mẽ đến liều UV tích lũy.
Trong phân tích tổng hợp nhóm phụ, thời gian sử dụng thuốc thiazide lâu dài (trên 5 năm) có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc SCC và nguy cơ mắc SCC này ở những người sử dụng thiazide dài hạn cao gấp 1,7 lần so với người dùng thiazide theo từng giai đoạn bệnh.
Tuy nhiên, tác động của các yếu tố nguy cơ cá nhân đối với bệnh ung thư da như màu da, lượng ánh nắng mặt trời tiếp xúc hoặc tiền sử gia đình... chưa được xem xét đầy đủ trong phân tích tổng hợp này.
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng việc sử dụng thuốc lợi tiểu thiazide có thể liên quan đến việc làm tăng nguy cơ ung thư da. Mối liên quan này được ghi nhận rõ nhất giữa việc sử dụng thuốc hydrochlorothiazide hoặc kết hợp hydrochlorothiazide với nguy cơ ung thư biểu mô tế bào vảy SCC so với các loại ung thư da khác.
Biết được nguy cơ này, bác sĩ và người bệnh sẽ chủ động phòng tránh khi dùng các thuốc này, đặc biệt trong thời gian dài.