Thuốc lá điện tử sẽ tiếp tục gây gánh nặng bệnh tật và chi phí điều trị lớn tại Việt Nam

16-07-2025 08:32 | Y tế

SKĐS - Thuốc lá điện tử và các dạng thuốc lá mới đang mở đầu cho xu hướng lạm dụng và nghiện các hóa chất nhân tạo tổng hợp, bao gồm nicotin, các loại ma túy thế hệ mới và rất nhiều hóa chất khác, không chỉ gây nên gánh nặng khổng lồ mới về y tế, kinh tế, an ninh trật tự mà ảnh hưởng nhiều lĩnh vực khác...

Bộ Y tế dẫn thông tin của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), đối với thuốc lá điện tử đã có ít nhất 39 quốc gia và vùng lãnh thổ cấm hoàn toàn các sản phẩm thuốc lá điện tử. 

Trong khu vực ASEAN, đã có 5 quốc gia cấm hoàn toàn là Thái Lan, Singapore, Lào, Brunei, Campuchia. 03 quốc gia bán thuốc lá điện tử dưới dạng dược phẩm được cấp phép và thuốc kê đơn được điều trị theo phác đồ (Chile, Úc và Nhật). 

88 quốc gia quản lý thuốc lá điện tử (trong đó có 27 quốc gia thuộc khối liên minh Châu Âu). Việc quản lý được tiến hành chặt chẽ theo các biện pháp của Công ước khung (WHO FCTC).

Thuốc lá điện tử sẽ tiếp tục gây gánh nặng bệnh tật và chi phí điều trị lớn tại Việt Nam- Ảnh 1.

Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), đối với thuốc lá điện tử đã có ít nhất 39 quốc gia và vùng lãnh thổ cấm hoàn toàn các sản phẩm thuốc lá điện tử.

Đối với thuốc lá nung nóng, ít nhất 18 quốc gia cấm (trong đó có 5 quốc gia thuộc ASEAN gồm Capuchia, Lào, Singapore, Thái Lan, Brunei). 71 quốc gia quản lý thuốc lá nung nóng (trong đó 27 quốc gia thuộc khối Liên minh Châu Âu)

Việc áp dụng biện pháp cấm hay quản lý phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội và năng lực đáp ứng yêu cầu quản lý của mỗi quốc gia, nhìn chung có thể thấy:

Các nước áp dụng biện pháp cấm trên nguyên tắc cẩn trọng để bảo vệ sức khoẻ cộng đồng hoặc các biện pháp kiểm soát thuốc lá chưa được thực hiện toàn diện, tỉ lệ hút thuốc lá vẫn còn cao, hạn chế về nguồn lực quản lý, theo dõi và thực thi pháp luật.

Các nước áp dụng biện pháp quản lý như dược phẩm khi họ có hệ thống và quy trình phê duyệt thuốc như sản phẩm điều trị chặt chẽ. Có năng lực để quản lý và giám sát.

Các nước áp dụng biện pháp quản lý khi họ có khả năng thực hiện hiệu quả và toàn diện các biện pháp của Công ước khung WHO FCTC và có đủ nguồn lực để giám sát, ngăn ngừa vi phạm.

Thuốc lá điện tử và các dạng thuốc lá mới đang mở đầu cho xu hướng lạm dụng và nghiện các hóa chất nhân tạo tổng hợp, bao gồm nicotin, các loại ma túy thế hệ mới và rất nhiều hóa chất khác, không chỉ gây nên gánh nặng khổng lồ mới về y tế, kinh tế, an ninh trật tự mà ảnh hưởng đến giống nòi và nhiều lĩnh vực khác. Nếu không được ngăn chặn kịp thời, do khả năng gây nghiện cao và lan nhanh trong cộng đồng; Tạo ra một thế hệ mới nghiện nicotin và các chất gây nghiện khác như ma tuý do không có sự ngăn chặn kịp thời.

Thuốc lá điện tử sẽ tiếp tục gây gánh nặng bệnh tật và chi phí bệnh tật lớn tại Việt Nam. Theo WHO, trên thế giới, sử dụng các sản phẩm thuốc lá điếu thông thường đã khiến cho 8 triệu người tử vong mỗi năm (7 triệu do hút thuốc trực tiếp và 1.2 triệu do hút thuốc thụ động). 

Tổn thất kinh tế trên toàn cầu 1 nghìn tỷ USD. Tại Việt Nam, WHO ước tính sử dụng thuốc lá gây ra ít nhất 40 ngàn ca tử vong mỗi năm. Chi tiêu cho hút thuốc lá 49.000 tỷ VND/năm : mua thuốc lá (Ước tính từ tổng tiêu thụ năm 2020). 

Chi phí điều trị mới chỉ 5/25 nhóm bệnh (ung thư phổi, ung thư đường tiêu hóa-hô hấp trên, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, nhồi máu cơ tim, đột quỵ) trên tổng số 25 bệnh do thuốc lá gây ra tại Việt Nam khoảng 1% GDP tương đương với 3 tỷ USD (67.000 tỷ đồng). Thuốc lá điện tử, thuốc lá làm nóng không làm giảm đi các vấn đề này mà thậm chí sẽ làm tăng các chi phí hơn nữa.

Theo Quỹ Phòng chống tác hại của thuốc lá, Chiến lược quốc gia về phòng chống tác hại của thuốc lá, Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá của Việt Nam, các nguyên tắc của Công ước khung về kiểm soát thuốc lá mà Việt Nam là thành viên đều thể hiện quan điểm nhất quán chính sách của Nhà nước ta là từng bước giảm nguồn cung cấp thuốc lá.

Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc giảm nhu cầu sử dụng thuốc lá với thành tựu là giảm được tỷ lệ sử dụng thuốc lá điếu thông thường trong nam giới trưởng thành trung bình 0,5% mỗi năm (từ 47,4% năm 2010 (điều tra GATS 2010) xuống còn 38,9% năm 2023 (PGATS 2023). 

Tỷ lệ hút thuốc ở thanh thiếu niên cũng đã giảm, trong đó, ở nhóm 13-17 tuổi đã giảm từ 5,36% năm 2013 xuống còn 2,78% năm 2019, ở nhóm 13-15 tuổi giảm từ 2,5% (GYTS 2014) xuống còn 1,9% (GYTS 2022).

Thuốc lá điện tử sẽ tiếp tục gây gánh nặng bệnh tật và chi phí điều trị lớn tại Việt Nam- Ảnh 2.

Lực lượng chức năng thu giữ lượng lớn thuốc lá điện tử.

Đây là những kết quả rất đáng khích lệ trong công tác phòng, chống tác hại của thuốc lá. Tuy nhiên, những thành tựu này có nguy cơ bị phá bỏ bởi việc gia tăng nhanh chóng tỷ lệ sử dụng thuốc lá mới (chủ yếu là thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng), đặc biệt là trong giới trẻ, cụ thể, tỷ lệ sử dụng thuốc lá điện tử ở người trưởng thành tăng từ 0,2% năm 2015 lên 3,6% năm 2020, trong khi đó, tỷ lệ học sinh từ lớp 6 đến lớp 12 hiện đang sử dụng thuốc lá điện tử năm 2023 là 7,0%. 

So sánh với các nghiên cứu khác theo thời gian cho thấy tỷ lệ sử dụng thuốc lá điện tử trong học sinh ở nhóm tuổi 13-17 tăng từ 2,6% năm 2019 lên 8,1% năm 2023.

Sớm hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến cai nghiện thuốc lá điện tử và các sản phẩm tương tựSớm hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến cai nghiện thuốc lá điện tử và các sản phẩm tương tự

SKĐS - Việc đưa vấn đề cai nghiện thuốc lá điện tử và các sản phẩm tương tự vào quy định pháp luật là một bước đi cần thiết và cấp bách của Việt Nam nhằm đối phó với những tác hại đang ngày càng gia tăng của các sản phẩm này, đặc biệt là ở giới trẻ.


Nguyễn Hoàng
Ý kiến của bạn