Một số nét chính trong thoái hóa khớp
THK nguyên phát: do sự hóa già hóa sinh lý hơn là bệnh lý... Theo sự tích tuổi, tế bào già dần, rối loạn; mô sụn mất tính bền chắc, đàn hồi. THK bắt đầu ở tuổi 25 - 30, rồi nặng dần theo tuổi. THK nguyên phát thường thấy ở người lớn tuổi, gặp ở nhiều khớp, mức độ không nặng, tiến triển chậm, nặng dần; khác nhau theo giới, dưới 45 tuổi nam nhiều hơn nữ, trên 45 tuổi nữ nhiều hơn nam. Theo tổng kết ở Mỹ, dấu hiệu THK thấy trên X-quang có 10% ở lứa tuổi 15 - 24 nhưng có đến 85% ở tuổi 55.
THK thứ phát: do yếu tố cơ giới gây nên; có thể gặp ở mọi lứa tuổi; khu trú ở một số vị trí; tiến triển tùy thuộc vào yếu tố gây bệnh. Các yếu tố cơ giới thường thấy: tăng lực nén bất thường trên một đơn vị diện tích của sụn khớp, đĩa đệm còn gọi là hiện tượng quá tải (béo phì, lao động nặng, xiếc). Các dị dạng bẩm sinh làm thay đổi diện tì của khớp, cột sống tạo ra sự phân lực không đều. Các chấn thương, viêm, u… tạo ra các dị dạng cũng gây nên hiện tượng này.
THK còn do một số yếu tố khác như di truyền (bệnh có tính gia đình), rối loạn hoóc-môn (giảm estrogen tuổi mãn kinh, bệnh tuyến yên), chuyển hóa (bệnh đái tháo đường, xơ vữa động mạch, nhiễm sắc tố sắt, bệnh gút).
Biểu hiện giải phẫu sinh hóa: ở sụn khớp và đĩa đệm cột sống có các biểu hiện chi tiết khác nhau nhưng về bản chất thì như nhau: các sợi collagen bị đứt gãy, nứt rạn, vỡ, mủn, biến dạng, có chỗ bị hoại tử tạo thành hốc. Hoạt dịch mất tính đồng nhất, số lượng mucopolysaccharid, nước giảm rõ rệt. Màng hoạt dịch bị sung huyết, xơ hóa, lan rộng. Dưới sụn, các bè xương tăng lớp dày lên; một số bị gãy dứt; có những chỗ sụn hỏng bộc lộ cả phần xương. Có thể có các vết loét. Ở khớp, ở mâm sụn của thân đốt sống có thể có những gai xương mọc ra ở phần diềm xương chỗ tiếp giáp giữa sụn - xương- màng hoạt dich.
Biểu hiện lâm sàng: mhững tổn thương về giải phẫu sinh hóa làm cho sụn khớp giảm dần tính đàn hồi tính căng phồng; giảm dần các chức năng giảm xốc, phân lực, hấp thu lực; mất dần khả năng chịu đựng tác động của lực, của tải trọng khi tỉnh cũng như khi động. Ở giai đoạn nặng hơn, khớp bị cứng khô, biến dạng, gây đau đớn, hạn chế vận động, lao động, đi lại, đứng lên ngồi xuống đều khó khăn, phát ra tiếng kêu răng rắc. Khi thấy các dấu hiệu lâm sàng, thấy tổn thương trên phim X-quang thì bệnh đã qua trải qua một thời gian khá dài.
Thuốc dùng trong thoái hóa khớp
Thuốc điều trị THK có chức năng giúp tạo ra các tổ chức sụn, hoạt dịch và bảo vệ các tổ chức này. Có ba chất chính glucosamin, chondroitin, hyaluronat được FDA, EMA công nhận.
Glucosamin sulfat:
Dược tính: từ glucose, cơ thể sinh tổng hợp ra glucosamin trong các mô. Cơ thể dùng glucosamin làm nguyên liêu sản xuất ra proteoglycan, rồi từ proteoglycan mà tạo ra mô sụn. Trong các khớp bị viêm, lớp mô sợi của bao khớp và màng hoạt dịch làm giảm sự khuếch tán glucose vào mô sụn, hơn nửa sự viêm ở khớp làm cho việc tiêu thụ lượng glucose bị giới hạn; do đó xảy ra sự thiếu hụt glucosamin. Dùng glucosamin sulfat có nghĩa là đưa glucosamin từ bên ngoài vào bù đắp cho sự thiếu hụt glucosamin nội sinh.
Glucosamin có ái lực đặc biệt với mô sụn, kích thích chọn lọc tế bào sụn ở mô sụn bị hư hỏng (cần sửa chữa) sản xuất ra proteopolycan mà không tác dụng trên phần sụn còn lành lặn. Thêm nữa, glucosamin còn ức chế các enzym tiêu hủy protein (collagenase, phospholinase, stromelysin), giảm các gốc tự do gây phá hủy sụn khớp (suferoxid). Ngoài ra, glucosamin còn cải thiện sự thu nhận canxi vào xương, chống sự thoái hóa sụn xương; tăng sản xuất cải thiện độ nhớt của hoạt dịch, giảm sự khô cứng khớp. Như vậy, glucosamin sufat tác dụng đến quá trình bệnh sinh của THK cấp, mạn (có hay không có đau), cải thiện chức năng khớp, ngăn chặn bệnh tiến triển, phục hồi cấu trúc sụn khớp.
Glucosamin cải thiện tình trạng sụn, hoạt dịch chứ không chỉ kháng viêm giảm đau như kháng viêm không steroroid (NSAIDs). Glucosamin chỉ có thể gây dị ứng nhẹ trong khi NSAIDs có nhiều tác dụng không mong muốn, kém an toàn. Ngay trong việc giảm đau viêm, nếu dùng cùng thời gian như nhau, glucosamin có hiệu lực bằng NSAIDs; nếu dùng kéo dài, hiệu lực glucosamin bền vững hơn trong khi hiệu lực của NSAIDs không tăng mà xuất hiện nặng hơn các tác dụng không mong muốn. Ngoài ra, glucosamin do làm tăng sản xuất, cải thiện độ nhớt hoạt dịch nên làm cho khớp đỡ tiếng kêu, hoạt động có hiệu quả, trong khi NSAIDs không có tác dụng này. Gần đây, một số nghiên cứu cho rằng dùng glucosamin quá nhiều có thể gây tổn hại tế bào tuyến tụy, tăng nguy cơ phát triển đái tháo đường, tuy nhiên cũng có nhiều nghiên cứu chứng minh glucosamin không gây ra điều này.
Cách dùng: dùng cho tất cả THK nguyên phát, thứ phát (gối, háng, cột sống, vai, viêm quanh khớp, loãng xương, gãy xương, teo khớp, viêm khớp mạn, cấp).
Glucosamin uống,viên nang 250mg. Với bệnh nặng: đợt tấn công, một lần 2 viên x 3 lần/ngày trong ít nhất 8 tuần. Sau đó, duy trì: mỗi lần 2 viên x 2 lần /ngày trong 3 - 4 tháng. Cần điều trị nhắc lại trong mỗi 6 tháng một đợt như thế hay sớm hơn. Với bệnh vừa hay nhẹ: đợt tấn công, dùng ít nhất 6 tuần, mỗi lần 2 viên, mỗi ngày 2 lần và tiếp tục dùng duy trì 3 - 4 tháng, mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 2 viên. Cần uống trước bữa ăn 15 phút. Hiệu lực có thể thấy rõ trong vòng 1 tuần đầu. Trước đó, nếu cần giảm viêm ngay thì dùng NSAIDs , sau đó ngừng NSAIDs, dùng glucosamin sulfat.
Chondoitin (sulfat):
Chondroitin là một sulfat glycosaminoglycan (GAG) bao gồm một chuỗi xen kẽ các loại đường (N-acetylgalactosamin và axít glucuronic); một chuỗi chondroitin có thể có hơn 100 đường đơn. Chúng như là một phần của proteoglycan. . Chondroitin vốn có trong hầu hết mô người. Mất chondroitin từ sụn là nguyên nhân chính gây ra THK.
Dùng chondroitin tức là đưa chondroitin từ ngoài vào thay cho loại nội sinh bị thiếu hụt. Hiệu quả của chondroitin trong THK có thể là kết quả của một số phản ứng bao gồm: chống viêm, kích thích tổng hợp proteoglycan, axít hyaluronic, do đó có vai trò tạo sụn; làm giảm hoạt động dị hóa (catabolic) của sụn, ức chế sự tổng hợp các enzym proteolytic, nitric oxid và các chất khác vốn là những chất góp phần vào cơ chế gây thiệt hại sụn gây chết sụn khớp, do đó có vai trò bảo vệ sụn khớp, làm tăng tính vững bền collagen nội bào, duy trì tính co giãn của mô liên kết, giữ vững tính vững chắc, đàn hồi của sụn, kích thích sản xuất proteoglycan, thành phần thiết yếu tạo nên sụn, dẫn các chất dinh dưỡng đến nuôi sụn, chống thoái hóa sụn.
Vốn là chất nội sinh nên hầu như không độc kể cả khi dùng lâu dài. Hiếm gặp các phản ứng nôn, buồn nôn, tiêu chảy, ngứa nổi mày đay. Dùng quá liều có thể bị đau khớp chân khi di chuyển, rụng tóc, nhức đầu, nôn… song ngừng dùng sẽ hết.
Không dùng chodroitin sufat cho: những người đang cần tạo tân mạch như trẻ em, nữ muốn cóthai hoặc đang mang thai nuôi con bú, bị tai biến mạch, mới trải qua phẫu thuật lớn, bị bỏng diện rộng, vận động viên cần phát triển cơ bắp.
Cách dùng: trong THK thường phối hợp chondroitin với glucosamin, tạo thành thuốc hay thực phẩm chức năng. Trong sản phẩm, còn có thể cho thêm MSM (methyl sulfonyl methan) nhằm tăng hiệu quả của hai chất trên đồng thời tăng khả năng cung cấp máu cho các mô, giảm co thắt, giảm đau. Ngoài ra, cũng còn có thể cho thêm các chất chống oxy hóa như các enzym (suferoxiddimutase, catalase, glutasthion, peroxide), betacaroten, CoQ10, N-acetyl cystein, diphenyllamin nhằm làm chậm quá trình lão hóa giúp xương khớp khỏe mạnh.
Hyaluronat sodium
Đây là chất cao phân từ chiết xuất từ mào gà trống. Tiêm trực tiếp vào khớp sẽ kháng viêm giảm đau như NSAIDs. Quan trọng hơn là chống THK do ức chế sự phân hủy protein, kết khối với các proteoglycan (chất nền của sụn), sinh tổng hợp tế bào sụn.
Dung nạp tốt, chỉ gây đau ở chỗ tiêm (30%) mệt mỏi (17%), đỏ sưng tại chỗ nhẹ song không kéo dài. Không dùng cho người quá mẫn với thuốc.
Việc tiêm hyaluronat sodium trực tiếp vào khớp cần có chỉ định của thầy thuốc ở cơ sở có điều kiện vô khuẩn, có kỹ thuật viên thành thạo am hiểu về giải phẫu, tiêm đúng vị trí, không tiêm chệch ra các vị trí khác, nếu không sẽ bị tai biến.