Khởi động bệnh lý là viêm miễn dịch lan tỏa các tuyến ngoại tiết và toàn bộ bề mặt của mắt. Hậu quả khô mắt của bệnh gây khổ sở kéo dài, gây tàn phế và ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Hội chứng (HC) Sjogren được xác định bởi viêm kết giác mạc khô, khô miệng và viêm khớp dạng thấp được nhà khoa học Henrik Sjogren (Thụy Điển) phát hiện năm 1933. Hiện nay nhiều biện pháp điều trị đã được phát triển. Tuy nhiên các thuốc này cũng mới chỉ dừng lại ở chỗ điều trị triệu chứng.
Nước mắt nhân tạo
Điều trị khô mắt bao gồm sử dụng kéo dài thuốc nhỏ mắt thay thế làm ẩm mắt và bôi trơn giác mạc. Đó là những dung dịch có độ nhớt khác nhau, như nước mắt nhân tạo đơn giản hay gel tổng hợp (như carbomere tổng hợp hay acid hyaluronic). Các thuốc nhỏ mắt hay gel thường chỉ có hiệu quả ở bệnh nhân mắc chứng khô mắt mức độ nhẹ và trung bình và các viêm giác mạc thường kháng lại những thuốc bôi trơn đơn giản.
Thuốc tăng bài tiết nước mắt
Kích thích bài tiết nước mắt và nước bọt là cần thiết trong hội chứng Sjogren, đòi hỏi điều trị toàn thân. Nhiều loại thuốc đã được sử dụng nhưng có giá trị nhất là pilocarpin. Pilocarpin chủ yếu hiệu quả trên bài tiết nước bọt, và ở liều thông thường chỉ có tác dụng hạn chế trên khô mắt. Sử dụng ở liều tăng dần, để hạn chế tác dụng phụ kiểu ra mồ hôi hay đánh trống ngực, pilocarpin dưới dạng siro hay viên (Salagen). Ngay cả khi tác dụng trên nước bọt là chính, pilocarpin cải thiện đáng kể chất lượng sống của bệnh nhân.
Thuốc chống viêm và ức chế miễn dịch
Corticoid dạng nhỏ mắt được sử dụng theo kinh nghiệm, đôi khi thành công trong hội chứng Sjogren. Một hy vọng thực sự là phát triển cyclosporin dạng nhỏ mắt. Cyclosporin A là thuốc ức chế miễn dịch, không phải thuốc gây độc tế bào, đầu tiên được sử dụng trong phẫu thuật ghép tạng và dùng dạng tại chỗ để phòng chống thải ghép giác mạc. Tác động cơ bản của nó là ức chế lympho bào T trợ giúp (CD4), mà vẫn bảo lưu chức năng của lympho bào T ức chế (CD8). Ở mắt, cyclosporin nhỏ mắt có nồng độ hiệu quả trong giác mạc, kết mạc và tuyến lệ. Nó có tác dụng chống viêm và chống apoptosis của các tế bào tuyến lệ và biểu mô kết mạc, có tác dụng tiền apoptosis lên các lympho bào thâm nhiễm tuyến lệ, giúp thải loại chúng và giảm phản ứng viêm. Trong giai đoạn sau này, ít nhất là thể khởi phát khi mà tuyến lệ chưa bị xơ hóa, cyclosporin có thể phục hồi lại chức năng bài tiết của tuyến lệ chính và phụ, thể hiện bằng cải thiện test Schimer. Tuy nhiên cyclosprorin tại chỗ, rất ưa mỡ do vậy cần thành phần phụ trợ mỡ, đôi khi khó dung nạp. Các thử nghiệm lâm sàng đầu tiên khẳng định hiệu quả giảm viêm giác mạc do khô và làm giảm các chất chỉ định viêm, sản xuất bởi các tế bào kết mạc. Thuốc này đang còn ở giai đoạn nghiên cứu pha thứ 3 ở người. Đây sẽ là một tiến bộ cơ bản trong điều trị hội chứng khô, đặc biệt khi các chất trợ giúp nước mắt không có hiệu quả.
Điều trị các thể nặng
Có thể dùng thuốc mỡ nhãn khoa làm lành sẹo giác mạc, kính áp tròng chứa thuốc, đặt trụ bịt lỗ ống dẫn lệ (Lacriset), phẫu thuật bịt lỗ ống lệ hay sửa chữa kết mạc, giác mạc, mí mắt. Bịt điểm thoát của ống lệ, tạm thời bằng trụ hay nút ống lệ có thể làm giảm viêm kết giác mạc khô nặng bằng cách giữ lại chút nước mắt còn lại do tuyến lệ bài tiết. Tuy nhiên sự tăng bay hơi nước mắt, sự có mặt nhiều hóa chất gây viêm trong phim nước mắt giải thích sự thất bại của áp dụng đơn thuần phương pháp này. Có thể điều trị vết loét giác mạc bằng nhỏ huyết thanh tự thân, albumin người hay phẫu thuật tái tạo phức tạp như ghép màng ối.
Điều trị các cơ chế kết hợp
Sự có mặt của viêm mí mắt, thường xuyên trong hội chứng Sjogren hay đỏ mắt đòi hỏi phải chăm sóc mí mắt kiên trì, hàng ngày để thoát hết chất bài tiết của tuyến Meibomius, tái cân bằng thành phần lipid của phim nước mắt và chống lại nhiễm trùng do tụ cầu. Có thể điều trị kéo dài bằng tetracyclin. Cyclin trong các trường hợp này có tính chất chống viêm, làm giảm bài xuất IL-1 và ức chế collagenase, góp phần làm giảm viêm trên bề mặt mắt và cải thiện bài tiết lipid trên bề mặt mắt của các tuyến Meibomius và thành phần của phim nước mắt. Rất hiệu quả trong trường hợp đỏ mắt, điều trị này có tác dụng tốt trong viêm mí mắt, cải thiện bề mặt mắt trong hội chứng Sjogren.
Điều trị chứng khô mắt trong hội chứng Sjogren hiện nay chủ yếu vẫn dựa vào nước mắt nhân tạo đối với thể nhẹ và trung bình. Kích thích bài tiết nước mắt nhờ dùng pilocarpin đường toàn thân hay bịt tắc ống dẫn lệ để hạn chế thông nước mắt qua ống lệ có tác dụng tốt trong những thể nặng. Tuy nhiên sự phát triển cyclosporin tại chỗ và mới đây một số thuốc điều biến miễn dịch là những tiến bộ lớn nhất trong điều trị viêm giác mạc khô của hội chứng Sjogren.
BS. Nguyễn Hồng Hạnh