Bệnh Parkinson hay còn gọi là bệnh liệt rung do bác sĩ James Parkinson người Anh lần đầu tiên mô tả năm 1817. Nguyên nhân chính của bệnh là sự hoại tử các vùng chất xám (Substantia nigra) trong não bộ. Sau đó, bác sĩ thần kinh nổi danh của Pháp Jean M Charcot đã đề nghị lấy tên bác sĩ Parkinson đặt cho bệnh liệt rung này.
Nhìn chung, việc trị liệu chứng Parkinson hiện nay còn nhiều nan giải vì thuốc không thể làm hồi phục các tế bào bị hủy hoại để tiếp tục tạo sinh ra chất dopamin. Tuy nhiên, bệnh vẫn được trị liệu bằng dược phẩm, vật lý trị liệu, vận động cơ thể nhằm khống chế bệnh và thúc đẩy quá trình hồi phục. Thuốc cũng làm cho người bệnh khó chịu do nhiều tác dụng phụ hoặc có thể trở nên quen thuốc khiến phải gia tăng liều và cần phối hợp với nhiều dược phẩm khác. Thời gian tác dụng của thuốc lại ngắn nên phải uống nhiều lần trong ngày.
Các thuốc thường dùng là loại bổ sung dopamine bị thiếu hụt do các tế bào não chịu trách nhiệm sản sinh ra. Đó là thuốc loại levodopa khi vào tới não nó sẽ được chuyển hóa thành dopamine. Levodopa thường phối hợp với carbidopa nhằm làm giảm tác dụng phụ của thuốc này như ngây ngất, giảm huyết áp khi đứng lên hay ác mộng, rối loạn vận động, buồn nôn, đau bụng, hồi hộp, đôi khi hoang tưởng... Ngoài ra còn dùng thuốc chống sản xuất chất acetylcholine, vì chất này làm kích thích cơ cứng và rung nhiều hơn khi thiếu hụt dopamine. Đó là các thuốc anticholinergic như benzotropine, diphenhydramine… nhưng thuốc lại gây khô miệng, táo bón, mờ mắt, mất định hướng, mê sảng… Cũng còn dùng loại thuốc “nhái tác dụng” của dopamine như bromocriptine, perglolide…nhằm giúp thay thế dopamine dẫn truyền tín hiệu thần kinh mà không cần tới chất dopamine...
BS.Hoàng Thanh Sơn