Dimenhydrinate là thuốc kháng histamin H1 có mặt trong rất nhiều biệt dược. Một trong những chỉ định của thuốc là phòng ngừa và điều trị buồn nôn, nôn mửa và chóng mặt do say tàu xe. Đây cũng là loại thuốc chống say tàu xe được sử dụng rất phổ biến. Không sử dụng thuốc này ở trẻ em dưới 2 tuổi, trừ khi có chỉ định của bác sĩ.
Lưu ý khi dùng thuốc
Khi sử dụng thuốc có thể gặp một số tác dụng phụ: Buồn ngủ, đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, giảm phối hợp vận động, nhìn mờ, khô miệng và đường hô hấp. Một số ít trường hợp khi sử dụng thuốc có cảm giác chán ăn, táo bón, bí tiểu. Do thuốc có tác dụng gây ngủ nên cần thận trọng khi lái xe, vận hành máy móc. Thuốc làm nặng thêm tình trạng táo bón mạn.
Để giảm khô miệng, có thể ăn kẹo cứng hoặc bánh kem, nhai kẹo cao su, uống nước. Nếu có những triệu chứng khác lạ, nghiêm trọng như thay đổi tâm thần/tâm trạng (như bồn chồn, nhầm lẫn), nhịp tim nhanh/không đều, run, khó đi tiểu... cần báo ngay cho bác sĩ để có hướng xử trí kịp thời.
Phụ nữ mang thai nên tham khảo ý kiến bác sĩ khi dùng thuốc chống say tàu xe.
Có an toàn cho phụ nữ mang thai và cho con bú?
Thuốc phân bố rộng rãi vào các tổ chức của cơ thể, chuyển hóa qua gan và thải trừ qua nước tiểu. Thuốc qua được nhau thai. Một lượng nhỏ thuốc vào được sữa mẹ. Thuốc đã được nhiều phụ nữ mang thai và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ sử dụng và không quan sát thấy bất kỳ sự gia tăng dị tật thai nhi hoặc các tác hại trực tiếp hay gián tiếp khác đến thai nhi.
Ở phụ nữ mang thai: Dimenhydrinat là muối cloroheophyllin của diphenhydramine. Một số nghiên cứu quy mô lớn trên người đã chỉ ra sử dụng dimenhydrinat an toàn trong những tháng đầu thai kỳ, trong khi đó nghiên cứu khác cũng chỉ ra dimenhydrinat an toàn ở bất kỳ giai đoạn nào thai kỳ. Sử dụng dimenhydrinat trong 3 tháng cuối thai kỳ có thể dẫn tới co thắt tử cung. Doxylamin có thể kết hợp với vitamin B6 là lựa chọn ưu tiên để điều trị nôn và buồn nôn trong thai kỳ. Bên cạnh đó, cũng có thể dùng các thuốc kháng histamine thế hệ hai như meclizine để điều trị nôn và buồn nôn. Nếu chỉ định phải dùng dimenhydrinat thì nên tránh sử dụng trong 3 tháng cuối thai kỳ do nguy cơ tăng co bóp tử cung.
Ở phụ nữ cho con bú: Thuốc có thể ức chế tiết sữa do tác dụng kháng cholinergic. Lượng nhỏ dimenhydrinat vào sữa mẹ có thể gây hại cho trẻ bú mẹ, tuy nhiên một bằng chứng khác lại cho thấy liều nhỏ và không thường xuyên không gây tác hại trên trẻ bú mẹ. Tuy nhiên, nếu liều lớn hoặc sử dụng kéo dài khả năng cao gây ra tác dụng có hại trên trẻ sơ sinh hoặc làm giảm tiết sữa, đặc biệt nếu dimenhydrinat sử dụng kết hợp với pseudoephedrine (một loại thuốc tác động vào hệ thần kinh giao cảm, chống sung huyết mũi đường toàn thân).
Thuốc chống nôn thuộc nhóm kháng histamine được ưu tiên lựa chọn trong thời kỳ cho con bú là meclizine. Metoclopramid và domperidon cũng an toàn. Nếu phải dùng dimenhydrinat, nên dùng trong thời gian ngắn. Cũng có thể cần phải cân nhắc ngưng cho con bú trong thời gian dùng thuốc. Nếu như vậy, chỉ nên cho trẻ bú lại sau khi ngưng điều trị ít nhất 12-24 giờ để thuốc thải hết khỏi cơ thể.
Khi mang thai trong tình thế bắt buộc mới nhất thiết phải dùng thuốc. Tuy nhiên, việc lựa chọn thuốc chống nôn, chống say tàu xe cho phụ nữ mang thai và cho con bú cần tuyệt đối tuân thủ chỉ định của thầy thuốc. Bên cạnh việc sử dụng thuốc có thể dùng gừng trong chống nôn, say tàu xe vì có tác dụng không kém so với thuốc hóa dược mà lại không có tác dụng phụ.