Bệnh viêm gan do virut đang rất phổ biến, thách thức sức khỏe toàn cầu có thể sánh với các bệnh truyền nhiễm khác như HIV, lao, sốt rét. Viêm gan do virut B (HBV) và virut C (HCV) có chung đường lây truyền với HIV và cũng là nguyên nhân gây gia tăng tử vong hàng đầu ở người nhiễm HIV.
Nước ta, tỷ lệ đồng nhiễm HIV và viêm gan B là 14,2% và đồng nhiễm HIV và viêm gan C là 39,6%. 74% người nghiện chích ma túy nhiễm virut viêm gan C trong đó đồng nhiễm HIV/ viêm gan C là 98%. Đồng nhiễm viêm gan B và viêm gan C ở người nhiễm HIV làm tiến triển bệnh gan nặng hơn dễ dẫn đến viêm gan mạn tính, xơ gan và ung thư gan. HIV đẩy nhanh diễn biến tự nhiên của quá trình nhiễm virut viêm gan C nên người đồng nhiễm tiến triển nhanh hơn tới xơ gan, ung thư gan và bệnh gan giai đoạn cuối, so với người nhiễm virut viêm gan C đơn thuần. Virut viêm gan C còn làm tăng độc tính của các thuốc kháng HIV cho gan và giảm đáp ứng với điều trị ARV.
Trong thời gian qua, Chương trình Phòng chống HIV/AIDS đã tiến hành các can thiệp giảm hại bao gồm như tư vấn thay đổi hành vi dự phòng nhiễm HIV trong quần thể có hành vi nguy cơ cao, trao đổi bơm kim cho người nghiện chích ma túy, phân phát bao cao su dự phòng các bệnh lây truyền qua đường tình dục, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng methadone và điều trị ARV đối với những trường hợp nhiễm HIV. Các can thiệp này đã góp phần giảm tác động về y tế và xã hội do nhiễm HIV và virut viêm gan B, virut viêm C gây ra. Song độ bao phủ của các hoạt động can thiệp còn rất hạn chế và chưa bao quát tổng hợp toàn diện giữa dự phòng lây nhiễm HIV và dự phòng viêm gan do virut B và C.
Tư vấn cho người bệnh về phòng chống bệnh viêm gan do virut.
Trong khi đó, nhờ tiến bộ của y học, bệnh viêm gan do virut hoàn toàn có thể phòng và chữa khỏi được; vắc-xin phòng virut viêm gan B và thuốc điều trị viêm gan B mạn tính rất hiệu quả và trên 90% bệnh nhân nhiễm virut viêm gan C khỏi bệnh khi được điều trị thuốc trong thời gian 12 tuần. Tuy nhiên, hiện nay mới khoảng 5% người biết tình trạng nhiễm virut viêm gan của mình và dưới 1% số bệnh nhân được tiếp cận với thuốc điều trị do giá thành thuốc điều trị viêm gan C tương đối cao; tiếp cận với các dịch vụ sàng lọc, xét nghiệm, chăm sóc và điều trị tại tuyến y tế cơ sở về HIV, viêm gan còn rất hạn chế. Kỳ thị và phân biệt đối với người nghiện chích ma túy, phụ nữ làm nghề bán dâm, nam tình dục đồng giới và tù nhân là rào cản tiếp cận với các dịch vụ y tế.
Nhằm tiến tới loại trừ viêm gan do virut và nhiễm HIV vào năm 2030, Đại hội đồng Tổ chức Y tế Thế giới đã nghị quyết WHA.67.6 triển khai đồng bộ sàng lọc, chẩn đoán và điều trị giảm lây truyền HIV, viêm gan B, viêm gan C và thực hiện các gói can thiệp thiết yếu để chẩn đoán, điều trị HIV và viêm gan cho người nghiện chích ma túy. Học tập kinh nghiệm thành công của ngành y tế trong triển khai các chương trình y tế như chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình phòng chống lao, phòng chống sốt rét... hoạt động phòng chống đồng nhiễm viêm gan và HIV cần lồng ghép vào hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu, hướng tới chăm sóc sức khỏe toàn diện và đồng bộ, lấy người bệnh làm trung tâm, cung cấp dịch vụ y tế gần người bệnh.
Năm lĩnh vực hoạt động chính phòng và chống HIV/AIDS đồng nhiễm viêm gan virut B và C là: Sử dụng vắc-xin phòng virut viêm gan B rộng rãi cho trẻ em và bà mẹ mang thai; Phòng lây truyền HIV, HBV từ mẹ sang con; An toàn trong thực hiện thủ thuật, phẫu thuật, an toàn lọc máu, truyền máu, an toàn tiêm truyền thông qua dự phòng phổ cập, Cung cấp gói dịch vụ can thiệp giảm hại tổng hợp và toàn diện cho người nghiện chích ma túy để dự phòng, chăm sóc và điều trị HIV và viêm gan; Điều trị ARV ngay cho người nhiễm HIV có viêm gan virut B mạn tính, đồng thời từng bước tiếp cận với thuốc mới có tác động trực tiếp (direct acting action- DAA) đối với nhiễm virut viêm gan C.
Theo đó, Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS các tỉnh, thành phố; các trung tâm y tế quận, huyện thị trấn chỉ đạo và hỗ trợ các đơn vị y tế trên địa bàn triển khai các hoạt động giám sát, tổ chức triển khai các hoạt động chuyên môn về phòng chống bệnh viêm gan virut, lồng ghép các hoạt động truyền thông, khám sàng lọc phòng chống viêm gan virut vào các hoạt động phòng, chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS; Tổ chức kết hợp tư vấn, khám sàng lọc viêm gan virut đồng thời với khám sàng lọc HIV/AIDS cho các đối tượng nguy cơ cao; Quản lý các đối tượng đồng nhiễm HIV/AIDS và viêm gan virut, cung cấp thông tin cho trung tâm y tế dự phòng tỉnh để tổng hợp.
Trạm y tế xã, phường, thị trấn thường xuyên rà soát đối tượng nguy cơ cao nhiễm HIV và nhiễm viêm gan virut, thực hiện tiêm chủng vắc-xin viêm gan B cho trẻ sơ sinh và trẻ dưới 1 tuổi, tiêm vắc-xin viêm gan B cho phụ nữ mang thai và đối tượng nguy cơ nhiễm HIV. Tuyên truyền trên hệ thống truyền thông cơ sở về các biện pháp phòng chống bệnh viêm gan virut, phối hợp với các ban, ngành, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, đồng đẳng viên, cộng tác viên vận động thực hành vệ sinh cá nhân, rửa tay và tiêm vắc-xin đúng lịch và vận động các đối tượng có nguy cơ cao lây nhiễm HIV và nhiễm viêm gan virut tham gia khám sàng lọc để phát hiện sớm, điều trị kịp thời.