Lê: Tính mát, vị ngọt, có tác dụng thanh nhiệt sinh tân, hóa đàm. Người say ăn nhiều lê sẽ đỡ nhanh cảm giác miệng khô họng khát, ngực bụng nóng bức không yên. Sách Bản thảo diễn nghĩa viết: "Duy bệnh tửu phiến khát nhân, thực chi thậm giai" (với người bị phiền khát do rượu ăn lê rất tốt). Sách Bản thảo kinh sơ cũng viết: "Cao lương chi gia, hậu vị nghiễm tửu, túng tứ vô tiết, tất đa đàm hỏa thốt trúng ung thư bệnh, số thực lê, khả biến nguy vi an, công nán tận thuật", ý nói: người ăn nhiều đồ bổ béo, uống rượu vô độ tất sinh đàm hỏa dễ bị trúng phong, ung nhọt, nếu ăn nhiều lê sẽ chuyển nguy thành an, công hiệu khó nói cho hết.
Táo:Tính mát, vị ngọt, có công dụng sinh tân trừ phiền, chỉ khát giải rượu. Sách Tùy tức cư ẩm thực phổ viết: "Táo nhuận phế duyệt tâm, sinh tân khai vị, tỉnh tửu". Để đạt hiệu quả giải rượu cao nhất, cổ nhân khuyên nên ăn táo tươi hoặc ép lấy nước uống.
Cam:Tính mát, vị chua ngọt, có công dụng sinh tân chỉ khát, giải rượu lợi tiểu. Sách Khai bảo bản thảo viết: "Lợi tràng vị trúng nhiệt độc, chỉ bạo khát, lợi tiểu tiện, tỉnh tửu", ý nói: Cam có khả năng trừ nhiệt độc trong đường tiêu hóa, giải khát, lợi tiểu và giải rượu.
Trám: Có công dụng thanh phế, lợi họng, sinh tân và giải rượu. Sách Bản thảo kinh sơ viết: "Cảm lãm năng sinh tân dịch, tửu hậu tước cho bất khát, cố chủ tiêu tửu" (quả trám có thể sinh tân dịch, làm hết khát sau uống rượu, chủ về giải rượu). Sách Bản thảo hội ngôn khuyên khi say rượu nên dùng trám tươi 10 quả, bỏ hạt, sắc lấy nước uống.
Phật thủ: Sách Tùy tức cư ẩm thực phổ viết: "Phật thủ cam tính vị khoát đàm, tịch ác, giải trình, tiêu thực, chỉ thống". Từ "trình" ở đây dùng để chỉ tình trạng say rượu. Cổ nhân cho rằng, phật thủ là một vị thuốc phương hương lý khí, có tác dụng kích thích tiêu hóa, trừ đàm, làm hết nôn và giải rượu. Khi say rượu nên dùng 12-15g phật thủ tươi (hoặc 6g khô) hãm với nước sôi, uống thay trà.
Chuối tiêu:Tính lạnh, vị ngọt, có công dụng thanh nhiệt, nhuận tràng, tiêu khát, giải rượu. Sách Nhật dụng bản thảo viết: "Hương tiêu sinh thực giải tửu độc" (ăn chuối tiêu tươi có thể giải rượu, giải độc).
Quất:Có tác dụng lý khí, giải uất, hóa đàm, giải rượu. Sách Bản thảo cương mục viết: "Kim quất hạ khí khoái hung, chỉ khát giải tửu, tịch uế, bì vưu giai", ý nói quất có công năng hạ khí, làm khoan khoái lồng ngực, giải khát giải rượu, trừ uế, nếu dùng vỏ quất thì càng tốt.
Chanh:Tính mát, vị chua, cũng có công dụng giải rượu. Sách Bản thảo thập di khuyên nên lấy chanh trộn với đường rồi ép thành bánh, khi say rượu cắt vài miếng cho vào cốc nước sôi, hãm uống vì chanh có công năng "tiêu ngoan đàm, giáng khí, hòa trung, khai vị, khoan cách, kiện tỳ, giải tửu".
Nước mía: Tính lạnh, vị ngọt, có công dụng thanh nhiệt sinh tân, nhuận táo giải rượu. Sách Nhật dụng bản thảo viết: "Cam giá (mía) chỉ hư nhiệt phiền khát, giải tửu thanh phế". Tuy nhiên, cổ nhân cũng cho rằng khi say rượu nên dùng nước mía ép tươi chứ không nên dùng đường chế từ mía đã tinh luyện vì đường tính ấm, nếu dùng nhiều có thể tích nhiệt.
Củ đậu:Tính mát, vị ngọt, có công dụng sinh tân chỉ khát, giải rượu. Sách Lục xuyên bản thảo viết: "Địa qua sinh tân chỉ khát, giải rượu, trị nhiệt bệnh khẩu khát". Sách Tứ xuyên trung dược chí cũng viết: "Địa qua chỉ khẩu khát, giải tửu độc" và còn khuyên nên dùng củ đậu ép lấy nước uống hàng ngày để chữa ngộ độc rượu mạn tính.
ThS. Hoàng Khánh Toàn