Ngày 14/8, tại Hà Nội, Hội thảo Khoa học Quốc tế "Dinh dưỡng học đường năm 2025 - Vì một Việt Nam khỏe mạnh - Vì tầm vóc Việt" do Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương phối hợp Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức đã quy tụ đông đảo đại biểu từ các cơ quan tham mưu của Đảng, cơ quan quản lý Nhà nước, các nhà khoa học, chuyên gia quốc tế..
Nhân sự kiện này, phóng viên Báo Sức khỏe và Đời sống đã phỏng vấn TS.BSCKII Nguyễn Tri Thức, Thứ trưởng Bộ Y tế, về nội dung đã đến lúc Việt Nam cần luật hóa dinh dưỡng học đường, tiến tới xây dựng Luật Dinh dưỡng hoặc Luật Dinh dưỡng học đường, tạo hành lang pháp lý thống nhất để chăm sóc sức khỏe thế hệ tương lai.

TS.BSCKII Nguyễn Tri Thức - Thứ trưởng Bộ Y tế chia sẻ tại Hội thảo.
Xây dựng thế hệ người Việt khỏe về thể chất, minh mẫn về trí tuệ
Phóng viên: Thưa ông, ông có thể chia sẻ về thực trạng dinh dưỡng của người Việt Nam hiện nay?
TS.BSCKII Nguyễn Tri Thức: Đảng và Nhà nước luôn coi công tác dinh dưỡng là nhiệm vụ then chốt. Ngày 5/1/2022, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 02 phê duyệt Chiến lược quốc gia về Dinh dưỡng giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045, nhằm thực hiện dinh dưỡng hợp lý cho từng nhóm đối tượng, vùng miền, dân tộc, góp phần giảm bệnh tật và nâng cao tầm vóc, trí tuệ người Việt Nam.
Nhìn lại chặng đường đã qua, chúng ta có quyền tự hào: Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận là điểm sáng trong cải thiện dinh dưỡng. Chiều cao thanh niên 18 tuổi tăng rõ rệt giai đoạn 2010-2020: nam tăng 3,7 cm, nữ tăng 2,6 cm. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi giảm mạnh từ 30% xuống dưới 19,6% (năm 2020), nhanh hơn mức trung bình khu vực Đông Nam Á. Đây là minh chứng cho nỗ lực không ngừng của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Phóng viên: Thành tựu là thế, song những thách thức đặt ra là gì thưa ông?
TS.BSCKII Nguyễn Tri Thức: Chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận vẫn còn "vùng lõm" về dinh dưỡng và bất bình đẳng: Tỷ lệ trẻ em thấp còi ở vùng dân tộc thiểu số vẫn trên 30%, gần gấp đôi trung bình cả nước.
Ở các đô thị lớn, tỷ lệ học sinh thừa cân, béo phì đã tăng gấp đôi trong 10 năm qua, vượt 20%. Dù cải thiện, chiều cao trung bình thanh niên Việt Nam vẫn thấp hơn Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan.
Phóng viên: Can thiệp dinh dưỡng giai đoạn nào là quan trọng nhất thưa ông?
TS.BSCKII Nguyễn Tri Thức: Lứa tuổi học đường là "giai đoạn vàng" để can thiệp về dinh dưỡng và vận động, tạo tác động tích cực suốt đời. Vì vậy, nâng cao chất lượng dinh dưỡng học đường là định hướng chiến lược để cải thiện tầm vóc, thể lực và trí tuệ người Việt.

Lứa tuổi học đường là "giai đoạn vàng" để can thiệp về dinh dưỡng và vận động.
Hoàn thiện thể chế, chính sách - đầu tư cho dinh dưỡng là đầu tư cho phát triển. Cần xây dựng chương trình sữa học đường và bữa ăn học đường mang tầm quốc gia, khoa học, minh bạch, hiệu quả; ban hành chính sách khuyến khích xã hội hóa, huy động nguồn lực doanh nghiệp và cộng đồng.
Nâng cao nhận thức - xây dựng kiến thức dinh dưỡng học đường toàn diện, từ "ăn no" đến "ăn đúng, ăn đủ và vận động khoa học". Đẩy mạnh số hóa và hợp tác quốc tế - xây dựng cơ sở dữ liệu dinh dưỡng để quản lý thực đơn, theo dõi sức khỏe từng học sinh; học tập mô hình thành công của Nhật Bản, Hàn Quốc, Phần Lan… và áp dụng phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Cần có luật riêng, mang tính bao trùm về dinh dưỡng
Phóng viên: Ông có thể đánh giá ý nghĩa của chương trình dinh dưỡng học đường đối với sức khỏe của thế hệ trẻ và sức khỏe cộng đồng nói chung?
TS.BSCKII Nguyễn Tri Thức: Hội thảo hôm nay mang lại nhiều tham luận quý để Bộ Y tế và các bộ, ngành tham khảo, xây dựng chính sách dinh dưỡng – đặc biệt là bữa ăn học đường. Với sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, chúng ta hướng tới ban hành chính sách tầm quốc gia về dinh dưỡng học đường.
Tôi kỳ vọng trong tương lai sẽ có một luật về dinh dưỡng, bao gồm các mảng: dinh dưỡng học đường, giám sát bữa ăn cho trẻ, dinh dưỡng dự phòng và dinh dưỡng trong điều trị, tạo sự kết nối xuyên suốt giữa các lĩnh vực.
Phóng viên: Ông có thể nói rõ hơn về sự cần thiết của một luật dinh dưỡng riêng cho Việt Nam như ông vừa nhắc đến?
TS.BSCKII Nguyễn Tri Thức: Nhiều quốc gia tiên tiến đã ban hành luật về dinh dưỡng, bao gồm luật dinh dưỡng chung, luật dinh dưỡng học đường và luật bữa ăn trưa cho học sinh – với các quy định cụ thể, cơ chế giám sát an toàn thực phẩm và minh bạch thông tin. Nhật Bản là ví dụ điển hình, chỉ trong thời gian ngắn đã cải thiện rõ rệt thể chất người dân nhờ hệ thống luật chặt chẽ. Trung Quốc cũng có nhiều luật về dinh dưỡng và cơ chế giám sát nghiêm ngặt.
Theo tôi, để cải thiện thể chất người Việt Nam một cách khoa học, hiệu quả và đảm bảo đầy đủ chất dinh dưỡng cho thế hệ trẻ, chúng ta cần tiến tới xây dựng luật về dinh dưỡng – bao quát cả dinh dưỡng dự phòng, dinh dưỡng học đường và dinh dưỡng điều trị – để áp dụng thống nhất trên toàn quốc.
Phóng viên: Theo ông, nếu xây dựng luật dinh dưỡng ở Việt Nam thì điểm khác biệt so với các quốc gia khác sẽ là gì để phù hợp với điều kiện trong nước và góp phần nâng cao tầm vóc người Việt trong tương lai?
TS.BSCKII Nguyễn Tri Thức: Hiện nay, Việt Nam đang đối mặt với sự mất cân bằng dinh dưỡng giữa các vùng miền. Ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số và các khu vực khó khăn, tỷ lệ suy dinh dưỡng cao hơn mức trung bình cả nước. Ngược lại, tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…, tỷ lệ béo phì cao hơn nhiều, có nơi vượt 20% so với mức trung bình.
Do đó, khi xây dựng luật dinh dưỡng, chúng ta cần có chính sách đặc thù cho từng địa phương. Ví dụ, ưu tiên hỗ trợ trẻ em vùng khó khăn cả về tài chính, nguồn lực và bảo đảm an toàn thực phẩm. Đồng thời, phải tôn trọng và lồng ghép yếu tố văn hóa ẩm thực từng vùng. Không thể áp dụng một công thức chung cho toàn quốc, vì thói quen ăn uống và điều kiện sống khác nhau sẽ dẫn đến nhu cầu dinh dưỡng khác nhau.

Khi xây dựng luật dinh dưỡng, cần có chính sách đặc thù cho từng địa phương
Trên cơ sở văn hóa ẩm thực của từng địa phương, chúng ta mới tính toán được hàm lượng vi chất, năng lượng (calo) cần cung cấp cho trẻ, cũng như điều chỉnh theo mức độ vận động. Ví dụ, trẻ em miền núi có thể phải đi bộ nhiều cây số tới trường, tiêu hao năng lượng lớn, nên nhu cầu dinh dưỡng khác hẳn so với trẻ ở đồng bằng, được cha mẹ đưa đón bằng xe máy hoặc ô tô.
Vì vậy, luật cần quy định chi tiết và khoa học để giảm sự mất cân bằng dinh dưỡng giữa các vùng, giúp thế hệ trẻ phát triển lành mạnh, đồng đều về thể chất trên cả nước.
Phóng viên: Nếu các chính sách dinh dưỡng được thực hiện tốt, ông dự đoán tầm vóc người Việt trong 10–15 năm tới sẽ ra sao?
TS.BSCKII Nguyễn Tri Thức: Dự đoán chính xác thì khó, nhưng nếu có chính sách dinh dưỡng bài bản, thực hiện nghiêm túc và hiệu quả, chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng sự cải thiện rõ rệt về chiều cao và thể chất chỉ sau khoảng 10 năm. Nhiều quốc gia như Nhật Bản đã chứng minh điều này: nhờ luật dinh dưỡng chặt chẽ, họ thay đổi tầm vóc dân số trong thời gian ngắn.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Hiện nay, Bộ Y tế đang chủ trì xây dựng Luật Phòng bệnh. Trong đó, dành một chương riêng quy định về dinh dưỡng trong phòng bệnh tập trung vào dinh dưỡng cho phụ nữ có thai, bà mẹ cho con bú và trẻ dưới 24 tháng tuổi (dinh dưỡng trong giai đoạn 1.000 ngày đầu đời), dinh dưỡng cho trẻ em và một số nội dung liên quan đến dinh dưỡng học đường. Dự thảo dự kiến được hoàn thành và trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp tháng 10 tới đây.
Tuy nhiên, dinh dưỡng học đường là bài toán lớn, đòi hỏi một lời giải tổng thể và sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống. Để kết hợp các giải pháp của Luật Phòng bệnh với các giải pháp khác liên quan tới ngành giáo dục và đào tạo, các hình thức xã hội hóa và ứng dụng khoa học công nghệ… vẫn cần có chính sách riêng về dinh dưỡng bao trùm hơn, để tạo ra một cuộc cách mạng thực sự về cải thiện tầm vóc người Việt.
Tô Hội (thực hiện)