Thông tin mới về bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịch

06-08-2019 13:45 | Bệnh thường gặp
google news

SKĐS - Bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịch thường xảy ra ở nam giới tuổi trung niên. Bệnh lành tính nhưng những phiền toái nó gây ra cho bệnh nhân là đáng kể. Một số trường hợp mạn tính, tái phát nhiều lần gây giảm hoặc mất thị lực tiệm tiến, chất lượng thị giác suy giảm.

Bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịch có tên tiếng Anh là Central Serous Chorioretinopathy (CSC - được đặt tên từ năm 1971, nhưng trước đó, vào năm 1866, Von Greaf đã mô tả những trường hợp đầu tiên). Cho dù được gọi là lành tính nhưng những phiền toái nó gây ra cho bệnh nhân là đáng kể. Một số trường hợp mạn tính, tái phát nhiều lần gây giảm hoặc mất thị lực tiệm tiến, chất lượng thị giác suy giảm. Bệnh nhân phần lớn là nam giới, tuổi trung niên, đang gánh vác cả trọng trách trong xã hội và gia đình... đang cần chất lượng thị giác ở mức tinh xảo. Ở nhiều bệnh nhân, thị lực giảm sút nhiều, có biến hình, rối loạn sắc giác.

Do vậy, CSC gây hại cho con người không hề nhỏ nhưng các thuyết bệnh sinh, cách điều trị vẫn còn rất rối ren. Cách tiếp cận căn bệnh này đã thay đổi nhiều, theo đó, bệnh lý nhu mô hắc mạc sẽ bao gồm: Bệnh hắc mạc trung tâm thanh dịch (CSC), bệnh polip mạch hắc mạc (PCV), bệnh biểu mô sắc tố hắc mạc (PPE). Tất cả các bệnh lý trên đều dẫn đến thay đổi độ dày của hắc mạc.

Thông tin mới về bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịchKhám mắt người bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịch.

Dấu hiệu mắc bệnh

Bệnh xuất hiện với những triệu chứng khá điển hình: Người bệnh thấy có vùng đen trước mắt (ám điểm trung tâm tương đối), nhìn vật thấy hình biến dạng, méo, cong, thấy vật bị thu nhỏ. Đôi khi nhìn màu sắc thấy thay đổi, nhất là màu nhạt, màu sáng và vàng. Người bệnh đôi khi đau đầu, đau nhức mắt. Khám lâm sàng khi soi đáy mắt thường thấy có bong thanh dịch võng mạc, bong biểu mô sắc tố ở võng mạc hậu cực, nứt vỡ hàng rào biểu mô sắc tố.

Vì sao bị mắc bệnh?

Bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịch là bệnh lành tính chưa rõ nguyên nhân. Nói đến cơ chế bệnh sinh có thể kể đến: Gia tăng tính thấm, tăng áp lực thủy tĩnh tại hắc mạc, thiếu máu dạng thùy. Biến đổi của biểu mô sắc tố (RPE) là thứ phát, đầu tiên không có triệu chứng sau đó mới biểu hiện bằng dịch đọng ở dưới võng mạc sát với hắc mạc. Thuyết gây bệnh do hormon được bàn luận nhiều gần đây, đó là do tăng cortizol nội sinh hoặc dùng quá nhiều cortizol ngoại sinh gây ra biến đổi về đông máu, tổn hại màng Bruch, nứt vỡ hàng rào RPE ảnh hưởng đến vận chuyển nước và ion qua nó. Sau này, người ta còn đưa ra thuyết  liên quan đến H.pyloric cho rằng nguyên nhân là do vi khuẩn này gây rối loạn hệ đông máu. Người ta cũng để ý đến tính di truyền của bệnh hay rối loạn miễn dịch nhưng không có bằng chứng rõ ràng.

Nhờ có OCT và chụp mạch, người ta thấy nhiều biểu hiện bất thường của hắc mạc và biểu mô sắc tố: hắc mạc dày lên, lớp hạt ngoài bị mỏng đi, có hiện tượng tự tăng huỳnh quang ở vùng bong thanh dịch, số lượng tế bào nón có thể giảm.

Điều trị có gì mới?

Đến nay, quan điểm điều trị CSC cấp vẫn không thay đổi, đó là quan sát, theo dõi từ 1-4 tháng chờ bệnh tự thoái triển. Trong khi đó, các biện pháp kiêng cữ, bảo vệ cần được tăng cường và lưu ý như sau:

Giảm hoặc dừng sử dụng cortizol ở mọi dạng thức: thuốc tra nhỏ, khí dung, cream bôi, uống, tiêm...

Tránh các thuốc kích thích: sildenafil, ectasy;

Việc điều trị H. pyloric không làm bệnh mau khỏi như người ta mong đợi;

Các thuốc kháng glucocorticoide không có kết quả như việc dùng Ketocornazol chẳng hạn;

Các thuốc chẹn beta giao cảm không có tác dụng trên CSC;

Các thuốc chống tăng trưởng nội mô mạch máu (VGEF) không có tác dụng trong thực tế điều trị;

Thuốc lợi tiểu là acetazolamide tác dụng tốt cho CSC cấp.

Thông tin mới về bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịchHình ảnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịch.

Thuốc lợi tiểu dòng chống hấp thu muối khoáng ở ống thận như spirolondactone qua nghiên cứu so sánh thấy làm tiêu bong thanh dịch và phục hồi thị lực nhanh hơn lô chứng. Liều khuyến cáo là 25mg hàng ngày trong 12 tuần.

Epleronone được dùng cho CSC mạn tính thấy cải thiện dịch bong và thị lực nhanh hơn nhóm chứng, giảm được chiều dày võng mạc. Thời gian dùng thuốc khác nhau tùy nhóm nghiên cứu: có nhóm dùng 25mg trong 1 tuần rồi tăng lên 50mg trong 3 tháng.

Bệnh lý tân mạch hắc mạc (Pachychoroid  Neovasculopathy) được coi là biến chứng muộn của CSC mạn tính. Nhờ có kỹ thuật chụp ICG và OCT, người ta phát hiện được tân mạch type1 dưới biểu mô sắc tố có kèm bong thanh dịch hoặc không, biểu hiện bằng các vùng tối lõm xuống của biểu mô sắc tố (RPE). Khi ở giai đoạn này thì có 2 vũ khí mới được đưa ra là laser Argon kinh điển giảm liều hoặc laser vi xung.  Một nghiên cứu do Quantel Medical tài trợ cho thấy ưu điểm của laser cận giới hạn (Subliminal Laser Therapy), dùng xung ngắn có bước sóng mức micro giây có kết quả khả quan đối với CSC mạn tính (CSCC).


TS.BS. Hoàng Cương
Ý kiến của bạn