Túi mật có nhiệm vụ cô đặc và lưu trữ dịch mật (được gan tiết ra). Khi chúng ta ăn, đặc biệt là thức ăn có dầu, mỡ; túi mật sẽ co bóp để đẩy dịch mật chứa trong đó vào đường mật và sau đó xuống tá tràng để trộn lẫn với thức ăn giúp tiêu hóa chất béo.
Khởi nguồn của sỏi túi mật là dịch mật - hợp chất giúp cơ thể tiêu hóa chất béo và thuần hóa hàng loạt vitamin. Dịch mật do gan tiết ra và được vận chuyển đến túi mật. Sỏi túi mật là không gì khác những cục nhỏ xuất hiện từ mật đã kết tinh. Ở phương Tây, đa số sỏi túi mật là tập hợp chủ yếu từ cholesterol. Còn ở Việt Nam đa số là sỏi sắc tố, bắt nguồn từ trứng và xác ký sinh trùng đường ruột.
Cholesterol kết tinh ở dạng cục nhỏ khi túi mật tích trữ lượng dịch mật nhiều hơn khả năng hòa tan muối mật. Nguyên nhân tình trạng ứ trệ cũng có thể vì hoạt động bất thường của túi mật. Sỏi túi mật trở thành nguồn gốc tình trạng bệnh lý khi chúng làm tắc ống túi mật hay gây viêm túi mật.
Ai dễ mắc sỏi túi mật?
Những người sau đây thuộc nhóm có nguy cơ cao: người béo: vì sỏi liên quan đến vấn đề thừa cholesterol trong máu; phụ nữ dùng thuốc tránh thai có chứa estrogen; người có bệnh viêm đường ruột như bệnh Crohn, viêm loét đại tràng. Tiểu đường hoặc những bệnh khác hạn chế chức năng của túi mật hoặc làm chậm nhu động ruột - trong đó thậm chí có cả tình trạng tổn thương tủy sống.
Khởi nguồn của sỏi túi mật là dịch mật.
Biểu hiện của sỏi túi mật
Đa số bệnh nhân sỏi túi mật không có triệu chứng gì, được tình cờ phát hiện trong quá trình thăm khám chẩn đoán bằng siêu âm ổ bụng. Những triệu chứng đau dữ dội xuất hiện nhiều nhất khi sỏi làm tắc ống túi mật. Những cơn đau thường xảy ra trong trường hợp túi mật co thắt đột ngột (hay xảy ra sau bữa ăn nhiều thịt, dầu mỡ), do gia tăng sức ép của sỏi lên thành túi mật hoặc động tác co thắt túi mật làm chúng dịch chuyển, hệ quả làm tắc đường dẫn mật.
Trong các triệu chứng cơ bản có cơn đau thường xuất hiện ở giữa hoặc bên phải phần trên ổ bụng, ngay dưới đường xương sườn - tình trạng đau đớn gia tăng kéo dài khoảng 60 phút và có thể duy trì, mức độ giảm dần suốt vài tiếng tiếp theo. Cảm giác đau có thể mạnh mẽ và dai dẳng hoặc nhức nhối và căng phồng. Cũng không hiếm trường hợp cơn đau lan theo hướng sau lưng hoặc cánh tay phải. Không loại trừ kém theo tình trạng buồn nôn và nôn. Cơn đau thuyên giảm, khi túi mật trở lại trạng thái bình thường.
Sỏi túi mật cũng có thể gây ra những biến chứng nghiêm trọng, như viêm túi mật cấp, viêm đường mật, viêm tụy cấp…
Khi nào cần phẫu thuật?
Thông thường sỏi túi mật không gây đau đớn cho người bệnh thì chưa cần thiết phải phẫu thuật. Người bệnh có thể chọn giữa việc phẫu thuật và sử dụng các loại thuốc tan sỏi, tán sỏi ngoài cơ thể bằng sóng chấn động, làm tan sỏi và lấy sỏi qua da, lấy sỏi túi mật qua nội soi... Nếu sỏi túi mật đã có những triệu chứng đau đớn kéo dài, gây viêm túi mật mạn tính hay những biến chứng có nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng của bệnh nhân thì cần phải tiến hành phẫu thuật, bất kể kích thước sỏi túi mật nhỏ hay lớn. Ngoài ra, trường hợp sỏi túi mật không có triệu chứng nhưng bệnh nhân có sỏi lớn hơn 25mm, túi mật có nhiều sỏi, sỏi túi mật đi kèm với polype túi mật có kích thước lớn hơn 10mm hoặc có nguy cơ ung thư túi mật cũng cần phải phẫu thuật sớm.