Thơ khó hay là sự hù dọa người đọc?

04-08-2012 14:10 | Văn hóa – Giải trí
google news

Có vẻ như khái niệm thơ khó thường được gắn cho những bài thơ không viết theo kiểu truyền thống. Theo họ, khó hiểu là một đặc trưng của thơ cách tân và là sản phẩm tất yếu của đổi mới thi ca, không dễ tiếp cận được với đông đảo người đọc.

(SKDS) - Có vẻ như khái niệm thơ khó thường được gắn cho những bài thơ không viết theo kiểu truyền thống. Theo họ, khó hiểu là một đặc trưng của thơ cách tân và là sản phẩm tất yếu của đổi mới thi ca, không dễ tiếp cận được với đông đảo người đọc. Nói cách khác, nó rất kén chọn người đọc, càng khó tìm được tri kỷ tri âm.

Không ai chối cãi sự đa dạng về phong cách thơ. Hay nói chính xác hơn thì bài thơ mang dấu ấn sáng tạo riêng biệt của tác giả mà sự chọn lựa hình thức biểu hiện của họ bao giờ cũng mang tính tự do, độc lập rất cao. Tuy vậy, chúng ta không thể không thừa nhận rằng mỗi thể loại văn học đều có những đặc trưng, tiêu chí, biểu hiện chung của nó. Tính tổ chức của thể loại là điều có thật, dù rộng hẹp đến bao nhiêu cũng phải là nó, cao thấp thế nào cũng phải có giới hạn. Giới hạn thể loại buộc người cầm bút bay đúng quỹ đạo ngành nghệ thuật mình chọn lựa.

Theo tôi, muốn làm được thơ, tác giả phải hiểu thơ. Thế nào là thơ lục bát, thất ngôn, lục ngôn, ngũ ngôn…, thơ tứ tuyệt, tự do, thơ văn xuôi, thơ sắp đặt… rồi còn cấu tứ, thi ảnh, thi nhãn, tiết tấu, vần điệu… Quy luật, bí quyết nào để thơ có sức truyền cảm rộng rãi, sâu sắc và bền vững, rồi tính đa nghĩa, biểu tượng, ẩn dụ… của nó; đó chính là những yếu tố, thủ thuật mà người sáng tạo thi ca không thể bỏ qua. Tự do, phóng túng đến bao nhiêu thì người làm thơ cũng phải tuân thủ những yếu tố đó.

Chớ lầm tưởng rằng thơ hiện đại, thơ mới phải là thơ khó hiểu; thơ dễ hiểu thuộc về kiểu thơ cũ, thơ truyền thống. Thực ra, khó hiểu hay dễ hiểu không phải là tiêu chí của thơ, mà thơ hay chính là sự lay động người đọc ở cảm xúc mạnh, ở tính đa nghĩa của hình tượng, ở sự hợp lý đắc địa của ngôn từ. Giá trị của thơ nằm ở việc phát hiện vấn đề, tìm và dựng tứ độc đáo, ở tính sáng tạo trong thiết lập cấu trúc bài, chọn lựa hình tượng khác lạ, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ nhuần nhuyễn đổi mới.

 Câu lạc bộ Thơ - Cung Văn hoá Lao động Hữu nghị Việt Tiệp tổ chức buổi sinh hoạt thường kỳ.

Xin lấy một ví dụ để chứng minh điều trên. Đó là bài Cây chuối của Ức Trai Nguyễn Trãi làm ra từ thế kỷ 15: Tự bén hơi xuân tốt lại thêm/ Đầy buồng lạ, mùi thâu đêm/ Tình thư một bức phong còn kín/ Gió nơi đâu gượng mở xem.

Thơ ở đẳng cấp cao không lộ ra, không nói hết mọi điều nhưng không vì thế mà tù mù hũ nút, đánh đố người đọc. Cái bí ẩn cũng là cái mê hoặc của thi ca dẫn người đọc đi vào những mê lộ khám phá mới. Nó gợi mở cho ta nhiều lối nẻo để kiếm tìm chứ không hề bưng bít khép kín. Nếu nói về miêu tả thì chắc không nhiều người tả cây chuối đẹp và lạ như thế. Bàn tới sự đa nghĩa thì chắc Cây chuối không thua kém thi phẩm nào. Trong tôi hiện lên một Ức Trai đa cảm, đa tình lắm. Tự bén hơi xuân tốt lại thêm. Mối liên hệ giữa mùa (xuân) – cây (chuối) là mối liên hệ của tình yêu; đối chiếu vào con người, ta thấy mạch yêu ấy không ngừng tuôn chảy. Cây bén hơi xuân, người bén hơi người, cả hai đều tươi tốt thêm. Đầy buồng lạ, mùi thâu đêm. Tình yêu đã đến độ kết trái, tỏa hương nhưng hình như vẫn còn có điều gì đó nữa nên mới Tình thư một bức phong còn kín. Những nỗi niềm, những ẩn khúc, những mong ước chưa giãi bày thổ lộ? Những xao xác tơ non còn rưng rưng giấu kín trong lòng? Gió nơi đâu gượng mở xem. Theo tôi, đây là một mời gọi khám phá rất tinh tế và cũng rất hiện đại cách đây 6 thế kỷ rồi.

Thơ càng có nhiều tầng nghĩa càng sâu sắc, càng hay và hình như gắn với nó phải là sự tột cùng giản dị. Câu thơ Mái buồn nghe sấu rụng của Chính Hữu vừa có cảnh vật vừa có hồn người nhờ từ nghe. Tâm trạng con người được diễn đạt tinh tế và chính xác bằng một câu thơ cô đọng, không thừa không thiếu và quá gợi cảm. Phạm Tiến Duật viết: Vào rừng chẳng thấy lối ra/ Nhìn cây núc nác ngỡ là vàng tâm đầy ẩn ý đằng sau một câu thơ rất bình dị. Trần Đăng Khoa cũng thế, Mái gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương, tính biểu tượng phát huy hiệu quả ở đây. Câu thơ từng được coi là bí ẩn của Nguyễn Xuân Sanh Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà chỉ là một kiểu viết cầu kỳ không làm tôi thích bằng Giấy đỏ buồn không thắm/ Mực đọng trong nghiên sầu của Vũ Đình Liên.
 
Cái bí ẩn (tôi không muốn dùng từ khó hiểu) của thơ đâu phải là sự tù mù, rối rắm, càng không phải là để khéo léo giăng bẫy đánh đố người đọc. Đây nhé, đâu dễ hiểu thấu đáo mà vẫn đầy thu hút: Phất phơ hồn của bông hường/ Trong hơi phiêu bạt còn vương máu hồng; Gió chắp cánh cho hương càng tỏa rộng/Xốc nhau đi vào khắp cõi xa bay/Và hương bay thì hoa tưởng hoa bay của Xuân Diệu, và Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng/Trôi thây về xa tận cõi vô biên của Hàn Mặc Tử… Những nhà thơ nổi tiếng xưa nay hình như không ai đưa thơ mình vào “chỗ khó” cả, với họ, thơ phải có hồn và ẩn chứa nhiều ý tứ sâu xa, kín đáo như Chế Lan Viên liên tưởng: Những câu thơ lẫn khuất/Mọc góc xa của rừng hay Lê Đạt thực ảo đan xen: Mùi mưa xưa/lòng chưa tạnh/ phố nhau đầu…

Tôi không hiểu vì sao một số người lại nhân danh cách tân hiện đại thơ đi cổ súy cho kiểu viết tù mù, quái đản như trường hợp trường ca mang tên Ển lên đêm của LHT. Ển lên đêm là gì? Họ giải thích, đó là Em lên đỉnh. Đâu còn sự trong sáng của tiếng Việt nữa. Trời ơi là trời, cái lối viết ngọng lô ngọng líu này mà là thơ ư? Là hiện đại thơ, đổi mới thơ, cách tân thơ, cách mạng thơ ư? Rồi có kẻ tung hô ngợi ca kiểu viết: Những ngọn thác câm lặng đang đổ xuống rất mạnh/ những đế giày chuẩn bị vỡ tung/ chân tường mở cánh cửa thoát hiểm/ bụi mưa phùn hay châu chấu bay qua/ cả ngôi nhà lao đi chóng mặt/ sửng sốt, rã rời khi gặp bình minh của MVP hay Bước chân trượt trên đá sỏi/ Xuống sườn dốc lòng hồ/ Nơi ấy nước nằm lõa lồ trên đất/ Thèm được biến tan/ Đồi nhả ra những viên đá rắn cứng/ Và làm đau những đầu lưỡi sóng/ Và làm rách toạc mặt nước của  ĐDP…

Xin đừng hù dọa người đọc những kiểu viết như vậy nữa. Cũng đừng lấy cái khó của thơ để cột buộc những người không đồng tình hay phản đối lại kiểu viết ấy là cổ hủ lạc hậu, không biết đọc thơ hoặc bởi định kiến.

Tôi nhớ Nam Cao viết trong Đời thừa: “Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có...”. Những cái gì chưa có là giá trị đích thực của văn chương nói chung và thi ca nói riêng chứ không phải là sự vẽ bày tạo ra Từ ngữ kềnh càng, văn chương vô lối (Thơ cầm tay) như Chế Lan Viên tâm sự.

Cuộc tập dượt phức tạp nhất chính là cuộc tập dượt đưa tới vẻ giản đơn tột cùng của một hòa âm, R.Tagore nói thế.

Hòa âm của thi ca có được trước hết nhờ sự bình dị, thẳng ngay của tâm hồn người cầm bút.   

Nguyễn Hữu Quý


Ý kiến của bạn