Nếu bệnh nhân có triệu chứng như đột ngột bị yếu, tê bì nửa mặt, nửa người hoặc chỉ một bên tay/chân, khó nói hoặc không nói được, mất thị lực một bên... sau vài phút đến vài giờ thì hết và hồi phục hoàn toàn; nhưng cũng có thể không hồi phục... thì nhiều khả năng bệnh nhân bị hẹp động mạch cảnh (động mạch cấp máu não), thể hiện bằng cơn thiếu máu não thoáng qua hoặc nặng hơn là nhồi máu não.
Bệnh thiếu máu não do hẹp động mạch cảnh rất phổ biến nhưng ít bệnh nhân để ý để khám và điều trị. Nhiều trường hợp bác sĩ thường bỏ quên khi khám lâm sàng cho bệnh nhân. Chỉ đến khi tai biến mạch máu não xảy ra thì có tới 25-30% là do hẹp động mạch cảnh.
Vì sao hẹp động mạch cảnh có thể gây tai biến mạch máu não?
Động mạch cảnh có kích thước khá lớn, nằm ở cổ, gồm có động mạch cảnh trái và động mạch cảnh phải mà ta có thể sờ thấy được nhịp đập của chúng ở hai bên cổ. Động mạch cảnh có chức năng đưa máu từ tim lên nuôi dưỡng não.
Động mạch cảnh bị hẹp là do mảng vữa xơ phát triển dày lên từ thành mạch, làm giảm lưu lượng dòng máu não. Mảng vữa xơ có thể gây nên huyết khối tắc mạch tại chỗ hoặc di chuyển gây tắc mạch não. Bệnh hẹp động mạch cảnh là một trong các nguyên nhân quan trọng gây đột quỵ nhồi máu não và cơn thiếu máu não thoáng qua vì động mạch cảnh là động mạch lớn nhất cung cấp máu cho não.
Động mạch cảnh bị hẹp là do mảng vữa xơ phát triển dày lên từ thành mạch.
Triệu chứng lâm sàng của hẹp động mạch cảnh
Hẹp động mạch cảnh không triệu chứng: bệnh không biểu hiện gì đặc biệt, có thể được phát hiện khi khám tổng quát hoặc khám vì một bệnh lý khác (tim mạch, tuyến giáp…).
Hẹp động mạch cảnh có triệu chứng, đó là biểu hiện của thiếu máu não thoáng qua hay nặng hơn là tai biến mạch máu não, với các triệu chứng như sau: yếu hoặc liệt chân tay; mờ hoặc mù một mắt, thường thoáng qua (vài giây, vài phút, vài giờ) sau đó thấy lại bình thường; rối loạn giọng nói như khó nói hoặc không nói được. Các triệu chứng này thường xảy ra đột ngột.
Có bệnh nhân chỉ bị một triệu chứng, ngược lại có bệnh nhân bị nhiều triệu chứng cùng lúc. Nếu tự phục hồi hoàn toàn trước 24 giờ, gọi là thiếu máu não thoáng qua; còn nếu tồn tại hơn 24 giờ và thường là nhiều tháng, nhiều năm gọi là tai biến mạch máu não thực sự.
Chẩn đoán hẹp động mạch cảnh, cách gì?
Siêu âm là biện pháp đầu tiên cần làm cho mọi bệnh nhân nghi ngờ có bệnh động mạch cảnh, tiếp theo có thể lựa chọn giữa phương pháp chụp cộng hưởng từ mạch máu (MRA) hoặc chụp CT đa lớp cắt (MSCT) để đánh giá toàn thể hệ thống động mạch trong và ngoài sọ, cuối cùng là chụp mạch số hóa xóa nền DSA để can thiệp điều trị (đây là phương pháp đưa ra chẩn đoán chính xác nhất về tình trạng lòng mạch, được coi là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán bệnh mạch máu).
Các phương pháp điều trị
Điều trị phẫu thuật: Mục tiêu của phẫu thuật là lấy bỏ mảng xơ vữa nhằm giảm nguy cơ tai biến mạch máu não. Phẫu thuật hẹp động mạch cảnh khi có hẹp nặng (trên 70-80%), nhất là khi có triệu chứng trên lâm sàng.
Điều trị hẹp động mạch cảnh bằng can thiệp nội mạch. Đây là phương pháp không phẫu thuật, đưa dụng cụ qua một lỗ chọc kim ở động mạch đùi (gồm dây dẫn, ống thông gắn bóng, stent) đưa lên vị trí động mạch tổn thương, mở rộng lòng động mạch cảnh bị hẹp, ép mảng vữa xơ vào thành động mạch, tái lập lưu thông dòng máu lên não, giúp giảm đáng kể nguy cơ nhồi máu não và cơn thiếu máu não thoáng qua. Đây là can thiệp cấp cứu khẩn cấp cho bệnh nhân nhồi máu não đến sớm do tắc động mạch cảnh. Thời gian điều trị và nằm viện ngắn. Bệnh nhân cần uống thuốc lâu dài theo hướng dẫn của bác sĩ can thiệp và kiểm tra định kỳ để đánh giá kết quả lâu dài và can thiệp bổ sung nếu bệnh tái phát.
Tuy nhiên, phương pháp can thiệp nội mạch có tỷ lệ dưới 5%, có thể gặp hội chứng tăng tái tưới máu não gây phù não, xuất huyết não... hoặc nhồi máu não do cục nghẽn di chuyển trong quá trình can thiệp.