Thiếu máu dinh dưỡng và cách khắc phục

30-07-2014 08:00 | Đời sống
google news

SKĐS - Thiếu máu dinh dưỡng là thiếu máu do thiếu một hay nhiều chất dinh dưỡng cần cho quá trình tạo máu như sắt, đồng, vitamin B12, acid folic...

Thiếu máu dinh dưỡng là thiếu máu do thiếu một hay nhiều chất dinh dưỡng cần cho quá trình tạo máu như sắt, đồng, vitamin B12, acid folic... nhưng phổ biến nhất là thiếu máu, thiếu sắt. Hậu quả của thiếu máu dinh dưỡng làm giảm sức đề kháng của cơ thể phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn và ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng, phát triển tâm vận động, khả năng học tập, trí thông minh của trẻ. Phụ nữ có thai bị thiếu máu có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hoàn thiện của não và phát triển thai nhi.

Đánh giá tình trạng thiếu máu thì dựa vào hàm lượng Hemoglobin (Hb). Khi Hb ở dưới ngưỡng giới hạn được coi là thiếu máu.

Ngưỡng giới hạn của hàm lượng Hb theo từng đối tượng. (xem bảng)

Mức độ thiếu máu: Thiếu máu nặng Hb < 70g/l; Thiếu máu vừa Hb70 - < 100g/l; Thiếu máu nhẹ Hb 100 - < 120g/l.

Thiếu máu thiếu sắt: Sắt trong cơ thể của mỗi người phụ thuộc vào lượng sắt trong chế độ ăn, khả năng hấp thu, dự trữ và thải trừ.

Nguồn cung cấp sắt có giá trị sinh học cao chủ yếu từ thức ăn nguồn động vật nhất là các loại thịt, gan, cá... Sắt từ nguồn thức ăn thực vật như ngũ cốc đậu đỗ, rau quả... thì giá trị sinh học thấp, hấp thu kém hơn... Vitamin C có tác dụng tăng cường hấp thu sắt, ngược lại các chất phytat, photphat, canxi (có trong ngũ cốc) và polyphenol (có trong trà và một số loại rau) làm giảm hấp thu sắt.

Bác sĩ dinh dưỡng hướng dẫn chế biến bột ăn dặm cho bà mẹ nuôi con nhỏ.

Bác sĩ dinh dưỡng hướng dẫn chế biến bột ăn dặm cho bà mẹ nuôi con nhỏ.

Các đối tượng có nguy cơ thiếu máu, thiếu sắt: Phụ nữ tuổi sinh đẻ thường bị mất sắt theo chu kỳ kinh nguyệt; Phụ nữ có thai dễ bị thiếu máu, thiếu sắt do nhu cầu cao hơn bình thường để tăng khối lượng máu cho người mẹ và phát triển thai nhi nhưng lượng sắt dự trữ không đáp ứng đủ nhu cầu; Con của các bà mẹ bị thiếu máu trong thời kỳ thai nghén; Trẻ đẻ thấp cân, đẻ non, suy dinh dưỡng bào thai; Trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ ăn bổ sung quá sớm; Trẻ lớn nhanh trong những năm đầu đời và ở tuổi dậy thì; Trẻ mắc các bệnh về đường tiêu hóa (tiêu chảy kéo dài, viêm loét dạ dày tá tràng, giun sán, sốt rét...).

Biểu hiện của bệnh tùy theo mức độ thiếu máu nhẹ, vừa, hoặc nặng. Trẻ thường mệt mỏi, kém ăn, chậm lớn, da xanh, niêm mạc nhợt, lòng bàn tay bàn chân, móng tay, móng chân cũng nhợt nhạt. Nhịp tim nhanh, khó thở khi gắng sức. Trẻ học kém tập trung, hay ngủ gật, chỉ số thông minh thấp. Ở phụ nữ có thai thường biểu hiện hoa mắt chóng mặt, nhức đầu, tim đập nhanh. Phụ nữ tuổi sinh đẻ thì kinh nguyệt không đều. Điều trị chủ yếu là bổ sung sắt kết hợp acid folic.

Thiếu máu do thiếu acid folic: Acid folic còn gọi là folat (vitamin B9) có chức năng cần thiết cho sự phát triển và phân chia tế bào của người, động vật, thực vật, vi khuẩn và sự hình thành tế bào máu.

Folat có mặt trong tất cả các thực phẩm, có nhiều trong các loại rau quả, rau lá màu xanh thẫm, cải xoăn, cam, lê, dưa hấu... và thức ăn như thịt gan trứng cá, đậu đỗ lạc... Tuy nhiên, trong quá trình nấu nướng tỷ lệ hao hụt rất cao từ 50-90%, thậm chí 100% khi nấu ở nhiệt độ cao nhiều nước.

Nguyên nhân thiếu hụt folat là do không cung cấp đủ trong khẩu phần ăn hoặc do tình trạng kém hấp thu nhất là khi các bệnh về đường tiêu hóa hoặc do nhu cầu tăng ở trẻ đẻ non, sốt rét, thiếu máu, tan máu và ảnh hưởng của một số thuốc như thuốc chống co giật, chống động kinh, chống ung thư, các thuốc làm giảm độ acid trong dạ dày đều làm tăng nhu cầu và sử dụng folat.

Thiếu folat trẻ thường mệt mỏi chán ăn, nôn, tiêu chảy, viêm miệng lưỡi, run chân tay, trương lực cơ tăng. Phụ nữ có thai trong những tháng đầu của thai kỳ thiếu folat có thể gây dị tật ống thần kinh cho thai nhi (nứt cột sống, vô sọ, thoát vị não). Đặc điểm của thiếu máu do thiếu acid folic là thiếu máu hồng cầu to, hồng cầu không đều. Điều trị chủ yếu là uống acid folic có thể kết hợp với sắt.

Thiếu máu do thiếu vitamin B12: vitamin B12 tham gia vào quá trình tổng hợp AND, sự phát triển và phân chia tế bào và quá trình myelin hóa sợi thần kinh. Thiếu vitamin B12 sẽ làm chậm quá trình phân chia tế bào ở tổ chức tạo máu gây thiếu máu và một số triệu chứng thần kinh. Vitamin B12 chỉ có trong thức ăn nguồn động vật. Khi chế biến nấu chín thì tỷ lệ hao hụt chiếm trên 50%.

Nguyên nhân thiếu vitamin B12 chủ yếu là do bị các bệnh về đường tiêu hóa (dạ dày ruột) gây kém hấp thu và chế độ ăn thiếu thức ăn nguồn động vật kéo dài, những người ăn chay hoàn toàn. Do vậy, những trẻ sinh ra từ những bà mẹ ăn chay có thể thiếu vitamin B12 từ những năm đầu đời do không có dự trữ B12. Ngoài ra có thể xuất hiện một số dấu hiệu rối loạn dẫn truyền thần kinh (rối loạn cảm giác, đi lảo đảo...) Đặc điểm của thiếu máu do thiếu vitamin B12 cũng giống như thiếu folat, thiếu máu hồng cầu to. Điều trị chủ yếu là tiêm bắp vitamin B12 liều cao.

Phòng chống thiếu máu dinh dưỡng:

Dinh dưỡng hợp lý: thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ và cho trẻ ăn bổ sung từ 6 tháng tuổi trở lên. Thức ăn bổ sung có đủ 4 nhóm thực phẩm (tinh bột, đạm, béo, vitamin và khoáng chất); Cần đa dạng hóa bữa ăn, sử dụng thực phẩm tăng cường sắt (nước mắm, bột dinh dưỡng...) hiện có trên thị trường; Điều trị sớm các bệnh nhiễm khuẩn nhất là các bệnh về đường tiêu hóa; Tẩy giun định kỳ 6 tháng một lần đối với phụ nữ và trẻ em trên 2 tuổi; Bổ sung viên sắt, acid folic: phụ nữ có thai uống 60mg sắt nguyên tố 400mcg acid folic/ngày. Uống từ khi có thai đến sau đẻ một tháng; Phụ nữ không có thai uống 60mg sắt nguyên tố 400mcg acid folic/tuần. Uống liên tục trong vòng 16 tuần và nên uống vào ngày nhất định; Trẻ sơ sinh nhẹ cân, đẻ non dự phòng thiếu máu bằng các chế phẩm sắt dạng dung dịch với liều lượng sắt nguyên tố 2mg/kg/ngày.

PGS. BS. Đào Ngọc Diễn


Ý kiến của bạn