Theo câu thơ Xuân Diệu về Năm Căn

09-11-2017 16:06 | Xã hội
google news

SKĐS - Nói đến miền đất Năm Căn là nói đến những cánh rừng đước, rừng tràm bát ngát hương hoa.

Và ai cũng biết, nơi đây chỉ cần hú lên một tiếng là đàn cò trắng vội vàng cất cánh bay lên, làm đàn cá cũng quẫy tung đuôi như những đốm nắng tung tóe trên đầm nước. Năm Căn còn có con sông Cửa Lớn cuồn cuộn sóng ngày đêm và cũng là bến đậu của đoàn tàu tiếp tế từ Bắc vào, theo con đường biển Hồ Chí Minh ngày nào, sục sôi khí thế cách mạng...

“Thủy quái” kênh 17

Cố thi sĩ Xuân Diệu đã làm bài thơ Bà má Năm Căn có câu “Chợ Năm Căn đốt, dựng mấy lần. Năm Căn vẫn cây rừng cá bể... Bà má Năm Căn vào Hội Mẹ. Nuôi bộ đội từng bữa uống bữa ăn”. Đó là một hình ảnh xa xưa và lịch sử của mảnh đất biển này. Tuy thời gian đã trôi qua thời khốn khó, nhưng không ai không nhớ đến cái ngày những bà mẹ Năm Căn ngày đêm nuôi bộ đội trong những cánh rừng tràm. Rừng đước, rừng tràm là chiến khu cách mạng nơi biển Đông dậy sóng căm hờn. Kẻ địch luôn mồm gọi đây là “Rừng Việt cộng”. Những cuộc thủy chiến trên sông Cửa Lớn luôn luôn rình rập. Suốt chiều dài gần 60 cây số của con sông Cửa Lớn là những chiến hào kênh rạch chờ đón kẻ thù đến nơi đây. Ngày ấy Năm Căn là nơi tập kết vũ khí, quân trang, lương thực từ miền Bắc vào, theo đường Hồ Chí Minh trên biển. Bọn giặc Mỹ ngụy điên cuồng huy động các hạm đội cùng tàu chiến bao vây, tấn công căn cứ Năm Căn.Biểu tượng Năm Căn.

Biểu tượng Năm Căn.

Trong bài thơ, nhà thơ Xuân Diệu có đoạn đã mô tả lại không khí những ngày này, ông viết: “Ôi! Má Năm Căn tóc ngả màu. Vẫn còn phải giữ chót Cà Mau. Ruột liền của má ôm Nam - Bắc. Lại những ngày đêm cực xót đau”. Đó là vào thời điểm cuối năm 1968, Lữ đoàn Thủy quân lục chiến phối hợp với lực lượng đặc nhiệm Mỹ tái chiếm Năm Căn, biến nơi đây thành căn cứ hải quân bao vây căn cứ “Rừng Việt cộng”. Chúng dùng những hạm đội nhỏ trên sông mở chiến dịch “Sóng thần”, càn quét, bắn phá nhằm bình định cho được vùng rừng đước Năm Căn, hòng tiêu diệt chiến khu của quân và dân ta. Bọn chúng thường đổ quân đánh theo ven sông. Những tàu chiến được trang bị vũ khí tối tân bắn phá sâu vào rừng đước. Phía trên thì máy bay ném bom tàn phá cánh rừng mênh mang trên sông nước, sình lầy. Chúng không thể ngờ, rừng tràm, rừng đước chính là nơi che chở cho quân, dân ta và trở thành những chiến hào kênh rạch ngang dọc, biến hóa như ma trận. Ngay những chùm rễ của cây đước cũng là nơi ẩn nấp bí ẩn của những chiến sĩ ngay trước mũi tàu giặc. Thoắt ẩn thoắt hiện. Đó là cách đánh của những đội du kích trên sông Cửa Lớn.

Suốt từ năm 1969-1970, Đội du kích Kênh 17, xã Tam Giang đã bao phen làm khiếp vía lính thủy đánh bộ Mỹ ngụy. Khi phải đối diện với Hạm đội 228, luôn có những tàu nhỏ hộ tống cùng máy bay yểm trợ trên sông Cửa Lớn, các chiến sĩ Kênh 17 phục kích trên rạch Chủ Mưu quyết đánh một trận sinh tử, tiêu diệt kẻ địch. Bọn giặc không ngờ, các chiến sĩ du kích đã lấy được những chùm đạn rốc két của chúng bắn xuống không nổ, để chế tác lại tạo thành vũ khí phản pháo. Chính cái đêm ấy (29/8/1970), những xuồng ba lá bày trận địa hỏa tiễn tự chế của ta dàn trận phục kích đón lõng tàu chiến lớn 228. Nếu quan sát ta mới thấy đây là chiến công kỳ lạ của du kích Kênh 17. Bởi chung quanh hạm đội là 18 tàu nhỏ hộ tống trước sau và hai bên. Trên  trời còn có hai tàu bay oanh kích và trực thăng bay thám báo. Chúng hùng hổ tiến sâu vào trận địa. Các chiến sĩ phục kích trên sông, dưới cành lá đước ngụy trang, lái những dàn hỏa tiến tới sát mục tiêu, đúng lúc cùng phát nổ. Chúng chưa kịp trở tay thì tàu chiến lớn 228 đã nổ tung, bởi từ bốn phía dàn hỏa tiễn của ta cùng bắn trúng mục tiêu. Ma trận săn tàu của đội du kích Kênh 17 đã tiêu diệt cùng lúc với tàu thủy chiến lớn chủ đạo 228 cùng với 4 tàu đi kèm. Ngay sau đó, những chiếc xuồng ba lá chìm xuống sông và biến mất trong rừng đước. Bọn giặc hoảng loạn tháo chạy ra khỏi ngã ba sông Cửa Lớn. Và đó cũng chính là hình ảnh cuối cùng trong bài thơ của Xuân Diệu: “Bà má Năm Căn, bà má Năm Căn. Những bà má Năm Căn làm ra đất nước”. Những câu thơ đau đáu tình người về mảnh đất kiên trung, anh hùng nơi đất mũi Cà Mau.

Ký ức một thuở

Chợ trên sông ở Năm Căn được dân quanh vùng gọi là chợ trôi, vì khách mua hàng ở nhà cố định trên bờ. Thuyền hàng sẽ đi dọc ven bờ sông, hoặc kênh, rạch, khi có ai gọi thì rẽ vào. Mỗi ngày có hàng chục chuyến hàng như thế với hình ảnh trôi thuyền vào bờ bán hàng. Ngay chợ lớn ở thị trấn Năm Căn cũng ở gần bờ sông để tiện khách đi thuyền lên bờ mua bán. Ngồi bên bờ sông chúng tôi nghe từ kênh rừng tràm giọng hát của một chàng trai thương hồ làm tất cả đều lặng đi. Chàng hát rằng: “Năm Căn mảnh đất cuối trời. Đước xanh bát ngát tình người chứa chan. Bên dòng sông ấy - Tam Giang. Nặng sâu nghĩa mẹ, nồng nàn tình em”. Thế rồi chúng tôi nghe một bà má Năm Căn bên quán hàng kể chuyện chốn rừng xưa ấy...Tưởng nhớ các chiến sĩ Năm Căn

Tưởng nhớ các chiến sĩ Năm Căn

Trên bến ngã ba sông Cửa Lớn, có một người Hoa kiều đến dựng 5 căn trại đáy, giăng lưới cố định đánh bắt cá trên sông, cách đây chừng 200 năm. Miền đất rạch ngang sông nước, cá tôm như trên trời rơi xuống, lấy tay cũng bắt được dăm con. Người ta đến đây đánh cá, trồng chuối, họp chợ trao đổi hàng hóa nhộn nhịp, ngay bên 5 căn trại đáy. Những cuộc trao đổi, gặp gỡ đều lấy điểm hẹn là 5 căn trại đáy trên ngã ba sông. Dường như cái tên Năm Căn được định danh từ hình ảnh đó. Xưa chợ Năm Căn còn bán cả than đước. Cây gỗ được còn được đốt làm than bán khắp vùng lục tỉnh Nam Bộ, nức tiếng với chất lượng than tốt nhất, nhiệt cao cháy lâu không nơi nào sánh được. Chả vậy mà người ta còn đặt tên cho Năm Căn là mỏ “vàng đen”.

Bà má bán quán còn kể, ở đoạn sông gần cửa Bồ Đề chảy ra biển có giống cá dứa, được coi là đặc sản ở Năm Căn. Cá dứa lạ lắm, có con nặng tới cả yến, to hơn cá tra hay ba sa, nhưng thịt thơm và ngọt đậm hơn nhiều. Chính vì giống hiếm nên ở đây còn có nghề đi săn cá dứa. Nhất là vào tháng 8 âm lịch, cá dứa từ biển kéo vào tìm ăn trái mắm. Dịp này cây mắm cũng rụng quả nổi đầy triền sông. Trái mắm là thức ăn ngon của cá dứa. Vậy là những người săn cá dứa cứ chèo xuồng theo, rồi dùng lao đâm cá. Một buổi, người khỏe mạnh và kinh nghiệm có thể đâm được hai ba chục con là chuyện thường. Ấy là chưa kể vào dịp này đàn ba khía, một loài còng biển lai cua có càng màu tím đỏ, cũng sinh sôi và tìm ăn trái mắm đen. Người ta bắt ba khía cũng theo mùa mang ra chợ bán để làm mắm. Mắm ba khía thì thôi rồi, ngọt, đậm, thơm nức mũi. Nói rồi bà chép chép miệng làm chúng tôi ứa cả nước miếng. Tất cả đều cười rộ trên bờ sông. Bất ngờ có cô gái sán tới gạ bà má hát cho nghe điệu Lý Năm Căn, một bài hát nổi tiếng lâu nay, được truyền lại hàng trăm năm qua. Bà má hắng giọng rồi hướng về phía cửa sông hát, với tâm trạng bồi hồi khó tả. Lời hát khê khàn nhưng vẫn ấm áp nồng nàn. Câu ca cổ ngân vang: “Người ơi xa cách ngàn khơi. Thuyền trôi trôi mãi ai ơi. Theo tiếng ca đi muôn nơi. Lòng luôn muốn ai trở lại. Tình ta dẫu có mờ phai. Tình chung son sắt bền... câu chung thủy tình... ta duyên thắm vẹn gìn”. Nghe mà bâng khuâng bao nỗi. Chợt một tàu chở khách đi về hướng mũi Cà Mau lướt nhanh qua. Một con sóng nước trào lên thành những chùm lưới chói lóa ánh mặt trời. Những cậu bé cô bé tan học chạy ào trên nẻo xóm về kênh. Bóng cột ăng-ten bưu điện huyện đổ dài trên con đường dẫn lên cầu Cái Tất vượt sông. Chúng tôi đi xuống bến tàu Năm Căn. Đây là nơi đưa mọi người đi Rạch Tàu xuôi dòng về xóm mũi.

Cung điệu cuối trời

Cách đây hai năm, con đường bộ số 1 từ Bắc vào Nam bị chừng lại bên sông Cửa Lớn, tại thị trấn Năm Căn. Muốn đi tới mũi Cà Mau, huyện Ngọc Hiển, không còn cách nào khác phải đi canô, tàu cao tốc hay xuồng máy. Ước mơ hàng trăm năm qua của dân Ngọc Hiển là con cầu vượt sông Cửa Lớn, từ thị trấn Năm Căn. Giờ đã thành hiện thực, cây cầu Năm Căn được coi là điểm nhấn đưa đường Hồ Chí Minh, tuyến đường bộ đầu tiên về trung tâm huyện Ngọc Hiển, rồi thông xe ra đến mảnh đất cuối cùng của Tổ quốc.

Đột nhiên, khi con tàu chở chúng tôi vừa chui qua cầu Năm Căn thì bắt gặp một cô gái mặc áo bà ba, trên chiếc xuồng ba lá hiện ra. Gương mặt trái xoan xinh tươi ẩn giấu dưới chiếc nón lá dừa. Chúng tôi ước con tàu đi chậm lại nhưng con xuồng ba lá ấy lại rẽ ngoặt vào một con kênh nhỏ hun hút bóng dừa. Ai nấy không nói gì, có lẽ đều ngẩn ngơ tiếc nuối. Nhưng thật bất ngờ, tiếng hát của cô gái ngân vang cất lên từ cánh rừng tràm. Lời ca trong trẻo ngân vang: “Miền quê sông nước mình đây. Đồng xanh thẳng cánh chim bay. Đôi lứa trao câu yêu thương. Lòng em nhớ câu thề hẹn...”. Chúng tôi như đang lắng nghe chính tự lòng mình qua câu Lý, về với Năm Căn tràn ngập một rừng thương nhớ mảnh đất đầy thơ mộng này. Chả thế từ xưa đã có câu: “Năm Căn đi dễ khó về. Trai đi có vợ, gái về có con”.


Bài và ảnh: Vương Tâm
Ý kiến của bạn