Bác sĩ là một nghề vất vả. Thông thường, với các nghề nghiệp khác, các trí thức bậc cao hiếm khi phải trực tiếp làm các công việc chân tay. Nhưng với nghề y là ngoại lệ. Các giáo sư, giám đốc, thậm chí đến cả lãnh đạo cấp cao trong ngành vẫn trực tiếp tham gia khám bệnh, mổ xẻ. Còn với các bác sĩ thông thường thì mức độ quá tải công việc đến kiệt sức là điều thường xuyên xảy ra.
300 bác sĩ Mỹ tự tử vì stress
Một cuộc khảo sát quốc gia được công bố trong Archives of Internal Medicine vào năm 2012 báo cáo rằng các bác sĩ Mỹ bị kiệt sức hơn so với người Mỹ thuộc các ngành nghề khác. Khảo sát đầu năm 2015 của Medscape Physician Lifestyle Report cho thấy 46% số bác sĩ Mỹ trả lời rằng họ đã kiệt sức. Trong số các chuyên khoa thì các bác sĩ chuyên ngành Cấp cứu và Hồi sức tích cực là những người thường bị kiệt sức nhất. Thống kê của tạp chí Medscape ở châu Âu và Mỹ cho thấy tỷ lệ kiệt sức ở các bác sĩ chuyên ngành này đến 52-53%.
Nhân viên y tế chịu những áp lực, thiệt thòi mang tính đặc trưng nghề nghiệp.
Hậu quả của việc kiệt sức và stress ở các bác sĩ là hàng năm tại Mỹ có tới 300 bác sĩ tự tử vì stress. Tỷ lệ bác sĩ tự tử cao gấp đôi so với các nhóm dân cư khác. Ngoài ra, do kiệt sức, họ có thể cảm thấy mất cảm xúc, mất hứng thú nhiệt tình với công việc.
Hiện chưa có nhiều khảo sát về tỷ lệ kiệt sức và stress của các thầy thuốc Việt Nam, nhưng chắc chắn tình trạng này còn trầm trọng hơn nhiều so với các bác sĩ Mỹ.
Nguyên nhân do đâu?
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng kiệt sức và stress ở thầy thuốc, chúng ta có thể điểm một số nguyên nhân chính:
Mệt mỏi với các thủ tục: Tuân thủ đầy đủ các thủ tục hành chính không phải là điều dễ dàng đối với thầy thuốc, nhất là trong điều kiện bệnh nhân quá tải. Việc cho bệnh nhân hưởng chế độ bảo hiểm, chế độ nghỉ dưỡng sức hay cho một loại thuốc, một biện pháp kỹ thuật đắt tiền đòi hỏi các thủ tục phê duyệt chặt chẽ. Nếu không tuân thủ đúng có thể bị phê bình, thậm chí xuất toán và thầy thuốc phải tự bỏ tiền túi ra đền.
Bác sĩ có thể muốn cho bệnh nhân những thuốc, những biện pháp kỹ thuật tốt nhất ngay cả khi họ chưa có bảo hiểm y tế và chưa có tiền nộp tạm ứng. Nhưng họ lại có thể bị phê bình, thậm chí nhiều bệnh viện còn xử phạt thầy thuốc nếu để bệnh nhân trốn viện hoặc chây ỳ trả tiền gây thất thoát tài chính. Thầy thuốc luôn bị giằng xé giữa mong muốn cho bệnh nhân hưởng chăm sóc cao nhất và nỗi lo ngại phải chịu trách nhiệm. Họ luôn muốn dành tất cả nỗ lực cho hoạt động chuyên môn nhưng lại luôn phải phân tâm cho các thủ tục hành chính.
Làm việc quá giờ: Thông thường, một thầy thuốc sau ca trực 24 giờ (tương đương 3 ngày làm việc 8 tiếng) sẽ được nghỉ bù ngày làm việc hôm sau. Tức là trong 2 ngày đó, họ phải đi làm đến 3 ca, còn nếu họ đi trực vào ngày thứ 7, chủ nhật thì có nghĩa là họ làm dư ra 3 ngày làm việc ngoài giờ nhưng chỉ được nghỉ bù 1 ngày làm việc. Điều trị là quá trình liên tục nên đa số bác sĩ trong ngày nghỉ bù sẽ ở lại khám, cho thuốc cho các bệnh nhân của mình xong mới về. Tình trạng làm quá giờ sẽ trầm trọng hơn nhiều trong các vụ dịch, các đợt bệnh nhân quá tải.
Thống kê nhiều năm qua cho thấy, thu nhập của ngành y đứng gần thấp nhất trong 18 ngành nghề được khảo sát. Áp lực kinh tế khiến các thầy thuốc phải căng người ra làm thêm ngoài giờ để có thêm thu nhập. Từ chuyện mổ tăng ca, làm thêm giờ ở bệnh viện đến việc làm phòng mạch tư ngoài giờ. Cá biệt, ở nhiều vùng miền, nhiều thầy thuốc làm thêm ngoài giờ cả những công việc khác: Làm nghề phụ, làm trang trại nuôi trồng thủy sản, làm rẫy cà phê, cao su... Đã từng có bệnh viện cấm nhân viên làm thêm ngoài giờ nhưng đã vấp phải sự phản đối khá gay gắt của các thầy thuốc và dư luận cộng đồng.
Công việc quá tải: Tại Việt Nam, tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến tỉnh và trung ương đã ở mức trầm trọng nếu mỗi bác sĩ phải khám khoảng 70-80 bệnh nhân mỗi ngày. Mỗi bệnh nhân đến khám 1 lần và khi có xét nghiệm lại quay lại để kê đơn một lần nữa, với mỗi lần gặp 3 phút thì bác sĩ đó đã có 8 giờ làm việc không ngừng nghỉ. Với 3 phút khám và kê đơn thì khó mà đảm bảo kỹ càng. Vậy mà trong số hàng vạn đơn thuốc kê ra mỗi tháng, chỉ cần một đơn thuốc sai sót cũng đã đủ đẩy bác sĩ đó vào những phiền phức triền miên với cả bệnh nhân và dư luận xã hội.
Tình trạng quá tải công việc còn trầm trọng hơn nữa đối với những bác sĩ đồng thời tham gia cả công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Khi đó, thời gian làm việc của họ không phải là 8 giờ mà có thể đến 10-16 tiếng mỗi ngày.
Áp lực học tập và cơ hội thăng tiến: Hiếm có ngành nghề nào mà áp lực học tập lại lớn như ngành y. Đa số các ngành nghề khác sau khi hoàn thành bậc học đại học là có thể ra làm việc tương đối độc lập. Đối với ngành y, sau khi tốt nghiệp đại học thì ít nhất các bác sĩ phải học thêm một khóa Chuyên khoa định hướng 9 tháng mới có thể làm việc. Để trở thành bác sĩ chính phải học lên cao học hoặc chuyên khoa cấp 1 từ 2-3 năm và phải trải qua thời gian thực hành lâm sàng ít nhất 9 năm.
Ngành y là một ngành có tính hội nhập cao. Trong khi nhiều ngành kỹ thuật, công nghệ thế giới đã làm được cả trăm năm qua mà Việt Nam vẫn chưa làm nổi thì trong ngành y, hầu hết các tiến bộ y học trên thế giới đều được các bác sĩ Việt Nam tiếp cận và triển khai thành công sau chỉ một vài năm. Chỉ cần vài năm không cập nhật kiến thức mới là một bác sĩ đàn anh có thể thua kém các đàn em của mình. Vì vậy, học tập liên tục trở thành một áp lực rất lớn đối với các bác sĩ.
ThS.BS. Nguyễn Trung Cấp (BV Bệnh Nhiệt đới Trung ương)