Theo thống kê hàng năm, trên thế giới có khoảng 2 triệu người được chẩn đoán mắc ung thư vú và khoảng người 600.000 người tử vong. Theo thống kê của GLOBOCAN năm 2018, nước ta có gần 165.000 số ca mắc mới ung thư, trong đó ung thư vú là 15.000 người mắc chiếm tỷ lệ 9,2%.
Vậy yếu tố nguy cơ nào dễ măc bệnh, cách phòng ra sao? Bài viết dưới đây giúp các bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Một số yếu tố nguy cơ gây ung thư vú
Ung thư vú là tình trạng bệnh lý do tế bào tuyến vú phát triển không kiểm soát được, tạo ra các khối u ác tính, có khả năng xâm lấn xung quanh và di căn xa. Bình thường, các tế bào tuyến vú được sinh ra và mất đi theo một chu trình đã được lập từ trước. Cơ chế này giúp số lượng tế bào tuyến vú được sinh ra với số lượng vừa đủ, cân bằng giữa số lượng tế bào sinh ra và tế bào chết đi.
Khi có các đột biến gen xảy ra, hội tụ đủ các điều kiện đặc biệt để vượt qua được hệ thống kiểm soát miễn dịch của cơ thể, tế bào tuyến vú sẽ được sinh ra liên tục, mất kiểm soát và tạo thành các khối u bao gồm rất nhiều tế bào không bình thường.
Đó là các khối u ác tính tại vú, hay còn gọi là ung thư vú. Những tế bào này có khả năng xâm lấn vào mạch máu, mạch bạch huyết xung quanh và di chuyển đến những vùng xa vị trí khối u ban đầu, tạo ra các khối di căn
Một số yếu tố được biết đến như là yếu tố nguy cơ của ung thư vú bao gồm:
- Giới: nguy cơ mắc ung thư vú ở nữ giới cao gấp 100 lần nam giới.
- Tiền sử gia đình: phụ nữ có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn khi gia đình có người thân mắc ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng, có người thân mắc ung thư vú dưới 50 tuổi hoặc có đột biến gen BRCA1, BRCA2.
- Tuổi: nguy cơ ung thư vú tăng lên ở các phụ nữ nhiều tuổi. Việc tầm soát ung thư vú nên được tiến hành ở độ tuổi từ 40 trở lên.
- Tình trạng kinh nguyệt: các yếu tố liên quan đến tăng số lượng kì kinh như mang thai sau 30 tuổi, có kinh sớm trước 13 tuổi, mãn kinh muộn sau 50 tuổi hoặc không cho con bú,... đều làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú
- Một số yếu tố khác như: thừa cân, béo phì, sử dụng hormon ngoại sinh, người có tiền sử mắc các bệnh vú lành tính,...
Lối sống lành mạnh để phòng ngừa ung thư vú
Để phòng tránh nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, chị em cần có chế độ ăn uống, sinh hoạt khoa học, khám vú thường xuyên và chủ động tầm soát sớm bệnh.
Chị em nên thực hiện các biện pháp sau:
Duy trì cân nặng hợp lý có thể giúp phòng tránh ung thư vú: Người thừa cân béo phì sẽ tăng nguy cơ ung thư vú, đặc biệt khi béo phì xuất hiện trễ ở giai đoạn mãn kinh.
Duy trì cân nặng hợp lý bằng cách ăn uống cân đối, thường xuyên hoạt động thể lực ít nhất 30 phút/ngày trong 5-7 ngày mỗi tuần.
Giảm chất béo trong bữa ăn bằng cách hạn chế thức ăn chiên, quay, thịt mỡ, bơ, …
Chế độ ăn ít béo: Giảm chất béo trong bữa ăn bằng cách hạn chế thức ăn chiên, quay, thịt mỡ…; đặc biệt là các loại béo no như mỡ heo, bò, gia cầm, da, nội tạng…
Ăn đa dạng các loại rau và trái cây: Mỗi ngày nên ăn khoảng 300g rau và 200g trái cây đủ loại, nhiều màu sắc. Rau xanh đậm, củ quả vàng cam đậm như rau ngót, bông cải xanh, cà rốt, bí đỏ, đu đủ chin… chứa nhiều beta-caroten; trái cây màu đỏ như cà chua, dưa hấu, bưởi đỏ, lượu đỏ… chứa nhiều lycopen; các rau trái khác chứa nhiều vitamin C là những chất chống oxy hóa giúp bảo vệ tế bào chống lại sự tấn công của các gốc tự do.
Phòng ngừa ung thư vú nên ăn đa dạng các loại rau và trái cây
Chọn ngũ cốc nguyên hạt vì chứa nhiều vi khoáng chất và chất xơ giúp cơ thể khỏe mạnh.
Chọn thực phẩm giàu acid béo omega-3 như cá biển sâu (cá thu, cá hồi, cá ngừ, cá trích, quả óc chó…). Omega-3 có tính kháng viêm, tăng cường hệ miễn dịch và là chất chống oxy hóa giúp phòng chống sự phát triển của tế bào ung thư.
Tránh chất béo dạng trans có trong các loại thực phẩm chế biến sẵn như thịt chế biến sẵn (thịt hộp, lạp xưởng, xúc xích…), thực phẩm xông khói…
Uống rượu bia sẽ làm tăng nguy cơ bị ung thư vú
Hạn chế thức uống có cồn. Uống rượu bia sẽ làm tăng nguy cơ bị ung thư vú. Nên hạn chế loại thức uống này ở mức thấp nhất có thể.
Không hút thuốc. Đã có nhiều bằng chứng về mối liên quan giữa ung thư vú và hút thuốc, đặc biệt ở những phụ nữ tiền mãn kinh.
Có thể sử dụng các chất dinh dưỡng bổ sung theo hướng dẫn của bác sĩ dinh dưỡng hoặc chuyên viên tiết chế khi chế độ ăn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của cơ thể.