Cuộc luận chiến Billeter – Jullien diễn ra sôi nổi, hai bên đều có các nhà Hán học bênh vực. Bài viết này chúng tôi chỉ muốn giới thiệu sơ bộ lập luận của Billeter, ít được biết ở Việt Nam.
Trước hết, Billeter phê phán Jullien là đã chấp nhận và phát triển một huyền thoại về văn minh Trung Quốc truyền thống, tạo ra từ thế kỷ 17 bởi các nhà truyền giáo dòng Tên (Jésuites), các triết gia Ánh sáng thế kỷ 18, rồi các nhà Hán học phương Tây cho đến ngày nay. Huyền thoại này đưa ra hình ảnh tô vẽ của một nền văn minh ngỡ như hài hòa, minh triết (sage)… Đó là một hình ảnh phi lịch sử, ai đã đọc Tam Quốc, Thuỷ Hử… thì thấy thực tế đẫm máu vì tranh hùng, mưu mô, xảo trá, nhân dân cơ cực. Hiện nay, chính quyền Trung Quốc vẫn đề cao cơ sở lý luận về quyền lực ấy.
Nhận định cơ bản của Billeter là: “Cái mà ngày nay ta cho là văn minh Trung Quốc lại gắn liền mật thiết với sự chuyên chế của đế chế”. Đó là cái gốc của đầu óc thống trị.
Phát triển huyền thoại ấy, Jullien theo một phương pháp luận sai: Ông xuất phát từ một tiên đề (axiome) về sự khác biệt hoàn toàn (altérité) của văn minh Trung Quốc đối với châu Âu, rồi từ đó suy luận thành hệ thống.
Tại sao gốc của huyền thoại văn minh Trung Quốc lại là tư tưởng thống trị đế chế? Theo Billeter: “Muốn hiểu hiện tượng tư tưởng này, cần đi ngược lên nguồn vào thời điểm hình thành của nó, vào thời điểm đế chế đầu tiên ra đời”. Tần Thủy Hoàng lập ra đế chế nhà Tần (221 trước Công nguyên) bằng bạo lực, nhưng đế chế Tần cũng sụp đổ do bạo lực. Mối quan tâm của đế chế thứ hai tiếp đó, nhà Hán (202 trước Công nguyên) là tránh được sự sụp đổ nhanh chóng như đế chế Tần. Các hoàng đế nhà Hán và mưu sĩ của họ, cùng cả các triều đại sau, đã tìm ra một sách lược văn hoá, ít dùng hoặc không cần dùng đến bạo lực mà đế chế vẫn tồn tại. Tư tưởng trung quân đã thành một vũ khí văn hóa, một tín điều khiến toàn dân chỉ nghĩ đến bảo vệ quyền lực của đế chế. Nhờ vậy mà đế chế nhà Hán kéo dài 400 năm, hệ thống đế chế 2.000 năm.
Sự kiện cơ bản này đáng được suy nghĩ. Các sử gia cho lý do của sự thành công phi thường này là trật tự quân sự, hành chính, tổ chức, nghi lễ… Nhưng bí quyết thực, điều mà các sử gia không thấy hoặc chưa thấy rõ, là các hoàng đế, mưu sĩ và người thừa hành của họ (giới sĩ, trí thức) đã tạo ra một công cụ văn hóa cho trật tự mới. Phải làm cho thiên hạ tin là trật tự đế chế nằm trong quy luật tự nhiên của trời đất. Sự nhào nặn văn hóa ấy đẻ ra nội dung chính mà người Trung Quốc và người nước ngoài thường coi là “văn minh Trung Quốc”. Tất cả những gì ngày nay coi là đặc điểm Trung Quốc, nhất là lĩnh vực tư duy, đều nằm trong hệ thống này.
Billeter trích dẫn ý kiến của nhà sử học nữ Li Tong-tsun. Bà cho là các mưu sĩ đời Hán đã phong thánh cho Khổng Tử, đồng thời bóp méo Khổng Tử vì tư tưởng thật của ông là ở Luận ngữ. Họ dùng uy tín của ông làm trụ cột cho tư tưởng thống trị đế chế, đến mức “ngày nay, đế chế đã sụp đổ, mà hệ tư tưởng ấy vẫn còn làm tê liệt đầu óc những người đang sống”. Theo bà, hệ thống tư duy cổ truyền dựa vào chữ nhất (duy nhất) chi phối vạn vật. Hoàng đế là người thay trời duy nhất chủ quản con người. Sự thống nhất được thể hiện bằng một hệ thống xã hội tôn ti trật tự. Ai cũng phải khuất phục người trên và có quyền bắt người dưới phải khuất phục mình. Ai cũng có nhiệm vụ làm đúng phận mình để bảo đảm sự hài hòa của tổng thể thiên-địa-nhân. Hệ thống tư duy không chấp nhận cái tôi cá nhân (nhân vị). Ai vi phạm sẽ bị trừng phạt, khai trừ. Hoàng đế chỉ có nhiệm vụ…tha hồ chuyên chế, nhiệm vụ đối với trời là đảm bảo sự hài hòa của vũ trụ (nghĩa là giữ vững trật tự đế chế).
Theo bà Li Tong-tsun, lịch sử văn hóa Trung Quốc trong thế kỷ 20 là sự đấu tranh xem nên giữ hay bỏ tư tưởng cũ. Hiện vẫn còn ba phái: Phái bảo thủ giữ nguyên truyền thống, dĩ chí cho văn minh Trung Hoa phải thay thế văn minh phương Tây đang tàn lụi; phái nghiên cứu có phê phán truyền thống, chủ trương cần có tự do chính trị; phái so sánh Đông-Tây đứng giữa 2 phái trên, nhưng có phần dễ ngả sang hiện đại. Bà Li Tong-tsun nhận định là cuộc tranh luận vẫn chưa dứt bỏ được cái bất cập của truyền thống, mặc dù đã đối đầu với nhiều hệ tư tưởng khác (từ Hồ Thích đến Tôn Dật Tiên, chủ nghĩa Mác…). Theo bà: “Chỉ có tiến bộ thực sự khi chúng ta ưu tiên cho cá nhân, cá nhân phải được độc lập, không cần người nghĩ hộ! Hai là tự quyết định lấy bản thân, ba là muốn vậy, cần có tự do chính trị”.
Billeter còn tranh luận với Jullien về tính nội tại mà Jullien coi là chìa khóa của văn minh Trung Quốc, ngược với tính siêu việt của phương Tây. Billeter công nhận điều này là đúng: văn minh, tư tưởng Trung Hoa là một hệ thống nội tại, khép kín, diễn biến theo quy tắc riêng của nó. Không cần, không thể vượt ra khỏi hệ thống đó, không nêu được vấn đề siêu hình như ở phương Tây. Billeter trách Jullien là không hề phê phán tính nội tại đã ngăn cản tinh thần phê phán, phục vụ tư tưởng và hệ thống đế chế nhằm nuôi dưỡng tinh thần khuất phục tự nguyện.
Hữu Ngọc