Thành tựu y học thế giới thập kỷ qua

16-10-2011 10:15 | Quốc tế
google news

Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 đã mang tới vô số các phát hiện và tiến bộ y học có tầm ảnh hưởng lớn tới nền y học thế giới từ giường bệnh cho tới phòng khám. Một số phát hiện mới đã làm thay đổi quan niệm thâm căn cố đế của y học, mặt khác mở ra nhiều khả năng vượt xa sức tưởng tượng của các bác sĩ trước đây.

Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 đã mang tới vô số các phát hiện và tiến bộ y học có tầm ảnh hưởng lớn tới nền y học thế giới từ giường bệnh cho tới phòng khám. Một số phát hiện mới đã làm thay đổi quan niệm thâm căn cố đế của y học, mặt khác mở ra nhiều khả năng vượt xa sức tưởng tượng của các bác sĩ trước đây.

Trong số các thành tựu y học góp phần thay đổi thế giới này có:

Các phát hiện về bộ gen người đã vượt ra ngoài khuôn khổ giường bệnh

Năm 2000, các nhà khoa học thuộc Dự án gen người quốc tế đã công bố một sơ đồ phác thảo bộ gen người ra trước công chúng. Lần đầu tiên thế giới có thể đọc được bộ thông tin gen người đầy đủ và bắt đầu khám phá ra 23.000 gen hoạt động ra sao. Năm 2007, những cập nhật về bộ gen được TS. Craig Venter, nhà khoa học dẫn đầu của Celera Genomics xuất bản. Venter cho biết, đây là tiền đề cho rất nhiều tiến bộ về y học. Ông hiện là Chủ tịch của Viện J.Craig Venter, hoạt động trên tiêu chí phi lợi nhuận. Những thành tựu trong nghiên cứu bộ gen người sẽ đóng góp cho y tế dự phòng và giảm chi phí y tế do các biện pháp chữa trị tốn kém. Các hiểu biết về căn nguyên của gen và mối liên hệ với bệnh tật giúp chúng ta có thể phòng ngừa được nhiều loại bệnh tật. Chẳng hạn như, các bác sĩ đã phát triển một dụng cụ thử gen cho loại gen gắn với bệnh ung thư tiền liệt tuyến. Và khi việc sáng chế thuốc ra đời, có thể giảm nguy cơ cho loại gen này trong tương lai.

Nghiên cứu tế bào gốc: Những đột phá trong phòng thí nghiệm và một số tiến bộ lâm sàng

Có lẽ không có một lĩnh vực nghiên cứu nào có thể đốt cháy sức tưởng tượng của công chúng và gây ra nhiều tranh cãi như nghiên cứu tế bào phôi. Trên thực tế, lĩnh vực này tạo ra nhiều động thái chính trị hơn là các tiến bộ nhân bản lâm sàng. Tại Mỹ, chính quyền Liên bang không được phép tài trợ cho nghiên cứu tế bào phôi. Tuy nhiên, những tiến bộ lâm sàng với các tế bào gốc của người trưởng thành hay tế bào phôi, ngay cả chỉ đến từ các nghiên cứu thử nghiệm, quả thực là một sự thách thức các lệnh cấm trên. Chẳng hạn như, các nhà nghiên cứu châu Âu đã lấy các tế bào tủy xương từ hai cậu bé 7 tuổi, sau đó cấy các tế bào đã được chuyển đổi gen trở lại vào người các cậu bé nhằm ngăn ngừa một căn bệnh gây chết não có tên gọi là ALD. Các trường hợp kể trên đã châm ngòi nổ cho những hứa hẹn trong nghiên cứu tế bào gốc, cho dù là tế bào phôi thai hay tế bào gốc của người trưởng thành.

Các thành tựu trong nghiên cứu tế bào gốc đã được coi là bước đột phá của đầu thế kỷ 21. Giờ đây chúng ta có thể tái tạo các tế bào gốc giống với tế bào phôi từ các tế bào da. Và có thể mô phỏng vô số các loại bệnh của con người trong một chiếc bát thủy tinh nhỏ dùng để nuôi vi khuẩn.

Các liệu pháp cho bệnh ung thư được mở rộng nhờ các loại thuốc mới

Herceptin - loại thuốc nhằm vào loại ung thư vú điển hình bởi một loại gen ung thư gây ra có tên gọi là HER-2. Những phụ nữ có loại gen đột biến HER-2 này chiếm đến 25% các ca ung thư vú sẽ đáp ứng herceptin, ngay cả khi các biện pháp hoá trị mạnh nhất đã thất bại. Việc phê chuẩn herceptin và tyKerb trong điều trị ung thư vú sẽ giúp ngăn ngừa bệnh tái phát và có thể cứu sống nhiều phụ nữ có nguy cơ đối mặt với căn bệnh. Quan trọng hơn, các loại thuốc này có hiệu quả cao nhằm tới các tế bào ung thư, chứ không gây tổn thương cho cơ thể người bệnh. Một loại thuốc điều trị ung thư khác là gleevec nhằm vào sự biến đổi gen được gọi là bcr-abl khiến cho tế bào ung thư phát triển và nhân rộng ở các bệnh nhân với nhiều thể loại ung thư khác nhau, gồm bệnh bạch cầu và ung thư dạ dày GIST.

Kết hợp liệu pháp thuốc kéo dài sự sống cho bệnh nhân HIV

 Kể từ khi liệu pháp chống các virut ung thư và HIV tích cực liều cao, HAART được đưa ra, HIV đã được chuyển đổi thành căn bệnh mạn tính có thể kéo dài sự sống tới hàng chục năm. Tuy nhiên, liệu pháp kết hợp các loại thuốc khác nhau vào các giai đoạn khác nhau đã trở thành mô hình để điều trị các loại bệnh khác từ ung thư phổi cho tới bệnh tim. Vào năm 1996, một bệnh nhân 20 tuổi bị mắc bệnh AIDS chỉ có thể sống thêm 3-5 năm nữa nhưng hiện nay, nhờ kết hợp các loại thuốc, anh ta vẫn có thể sống tới 69 tuổi. Trong hơn một thập kỷ kể từ khi đưa ra liệu pháp HAART, các nhà nghiên cứu đã liên tục tinh chế các chế độ điều trị để cải thiện kết quả. Nhờ có phát minh trong nghiên cứu HIV, tỷ lệ tử vong do HIV đã giảm mạnh.

Xâm lấn tối thiểu và kỹ thuật robot cách mạng hóa ngành phẫu thuật

10 năm trước, một bệnh nhân điển hình sẽ bị để lại một vết sẹo dài đến 25cm khi bác sĩ tách bỏ quả thận của anh ta. Nhưng cho tới nay, các bác sĩ phẫu thuật tại Bệnh viện Cleveland chỉ cần một vết rạch nhỏ qua rốn bệnh nhân để lấy đi quả thận nhờ kỹ thuật mổ nội soi. Các cánh tay kim loại nhỏ xíu thao tác khâu sâu trong tim - phẫu thuật robot đang diễn ra hàng ngày ở nhiều nước. Việc xâm lấn nhỏ sẽ giúp cho bệnh nhân nhanh chóng hồi phục hơn và giảm đau đớn. Đặc biệt trong nhiều ca ung thư, bác sĩ dùng phẫu thuật robot nhằm tăng độ chính xác. Thậm chí, phẫu thuật nhờ robot còn có tiềm năng để các bác sĩ tiến hành phẫu thuật cho bệnh nhân từ xa. 

Bích Vân

(Theo Medpage today)


Ý kiến của bạn