Thăng hoa nỗi đau riêng thành cái đẹp dâng đời

10-11-2012 08:07 | Văn hóa – Giải trí
google news

Trong lịch sử văn học Việt Nam có một nhà thơ tài năng đã mắc chứng nan y khi mới ngoài 20 tuổi và đã lìa bỏ thế gian ở tuổi 28. Đó là Hàn Mặc Tử, tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí.

(SKDS) - Trong lịch sử văn học Việt Nam có một nhà thơ tài năng đã mắc chứng nan y khi mới ngoài 20 tuổi và đã lìa bỏ thế gian ở tuổi 28. Đó là Hàn Mặc Tử, tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí. Ông làm thơ từ 16 tuổi với các bút danh Phong Trần, Lệ Thanh và sau cùng là Hàn Mặc Tử. Hồi đó, bệnh phong chưa có thuốc chữa mà gia đình ông cũng không muốn đưa ông vào Quy Hòa, cứ mời thầy lang về chữa. Các thầy lang theo phương châm “dĩ độc trị độc” đã cho ông uống nhiều độc dược và chính những độc dược này đã phá hủy thân thể ông. Năm 1939, ông phải sống cách ly gia đình và cộng đồng tại một cái lều trên Ghềnh Ráng, Quy Nhơn. Ở đây, ông phải sống một mình, ngày đêm chỉ nghe tiếng sóng gầm, gió hú. Mỗi ngày một lần, một em bé đến mang cơm cho ông. Thỉnh thoảng, gia đình và bè bạn có đến thăm chốc lát, nhưng khi họ đi, ông càng buồn thêm.

Đến 1940, bệnh nặng, gia đình đưa vào nhà thương Quy Hoàng cách Quy Nhơn 6km. Nhà thương cũng là trại cách li của những người bị bệnh phong. Ở đây, các bà phước rất tận tình chăm sóc nhưng ông không qua khỏi và đã mất ngày 11/11/1940 tại đó.

Hài cốt ông sau năm 1954 được nhà thơ Quách Tấn, bạn ông đưa vào Ghềnh Ráng. Mộ được xây khang trang, đầu mộ có tượng Đức mẹ Maria dang hai tay như đón linh hồn người con bất hạnh.

Mặc dù mắc chứng nan y giữa tuổi thanh xuân, lại sống cách li với cộng đồng nhưng trong những năm ấy Hàn Mặc Tử đã vượt lên số phận, thăng hoa nỗi đau khủng khiếp thành những vần thơ tuyệt tác để lại cho đời. Ông đã viết nhiều tập thơ: Gái quê (1936), Thơ điên (Đau thương, Xuân như ý, Thương Thanh Khí, Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội - Kịch thơ), Chơi giữa mùa trăng - Thơ văn xuôi. Những tác phẩm ấy đã đóng góp cho phong trào thơ mới những thành tựu nổi bật với phong cách độc đáo và con đường phát triển riêng, nó gần như thâu tóm cả phong trào thơ mới Việt Nam từ lãng mạn sang tượng trưng đến siêu thực.
 
Thăng hoa nỗi đau riêng thành cái đẹp dâng đời 1
 Chân dung Hàn Mặc Tử.
Nhưng cái đáng quý nhất là dù bị số phận đẩy vào hoàn cảnh bế tắc, cách li với cộng đồng, cận kề cái chết thì ông không hề có sự chán chường tuyệt vọng, phá phách hay buông thả mà vẫn chan chứa lòng yêu cuộc sống, yêu con người, trân trọng những gì cao đẹp, thanh khiết như “Ta há miệng cho nguồn thơm trào vọt/Đường thơ bay sáng láng như sao sa/Trên lụa trắng mười hai hàng chữ ngọc/Thêu như thêu rồng phượng kết tinh hoa” (Nguồn thơm - Xuân như ý). Tâm hồn ông thăng hoa thành những vần thơ tuyệt diệu, chẳng những gợi cho ta niềm thương cảm mà còn đem đến cho ta những cảm xúc thẩm mỹ trong sáng và niềm tự hào về sức sáng tạo của con người. “Một mai kia ở bên khe nước ngọc/Với sao sương anh nằm chết như trăng/Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc/Đến hôn anh và rửa vết thương tâm” (Duyên kỳ ngộ).

Không thể nói là bệnh tật không in dấu trong thơ ông. Trong thơ ông, người ta gặp nhiều hình ảnh về máu và cả những hình ảnh hãi hùng, có khi quái dị nữa, là sản phẩm của những phút khủng hoảng tinh thần như “Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa/Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô/Ta nằm trong vùng trăng đêm ấy/Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra” (Say trăng). Nhưng không thể nói rằng những vần thơ ấy không đem lại cho ta những mĩ cảm từ sự đồng cảm với tâm trạng của tác giả. Về nghệ thuật, đó là sự cống hiến mới của Hàn Mặc Tử cho thơ mới, một bước phát triển của thơ mới. Hàn Mặc Tử đã dùng những hình ảnh tri giác cảm tính như những biểu tượng để biểu hiện thế giới nội tâm có tính chất chủ quan của nhà thơ như: “Trời từ bi cảm động ứa sương mờ/Sai gió lại lay hồn trong kẽ lá/Trăng choáng váng với hoa tàn cùng ngã” (Hãy nhập hồn em) - bút pháp tượng trưng. Hoặc hướng về thế giới vô thức, đề cao ngẫu hứng, không qua kiểm soát của lý trí, bỏ phân tích logic, chỉ tin cậy ở trực giác, giấc mơ, ảo giác, thậm chí rơi vào trạng thái mê sảng như “Ta đã ngậm hương trăng đầy lỗ miệng? Cho ngây người tê dại đến tâm can/Thét chùm sao hoảng rơi vào đáy giếng/Và muôn năm rướm máu trong không gian” (Rướm máu) - bút pháp siêu thực.

Ta càng cảm phục khi trong hoàn cảnh bất hạnh, bệnh tật đó, nhà thơ đã cống hiến cho chúng ta những bài thơ vào loại trong sáng nhất, xuất sắc nhất của thơ mới như Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín, Đà Lạt trăng mờ... Ở những bài thơ ấy, ta gặp một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu quê hương, yêu thiên nhiên, yêu con người đến thiết tha, đến quên nỗi đau hay hòa tan nỗi đau vào đó. “Sao anh không về chơi thôn Vĩ/Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên/Vườn ai mướt quá xanh như ngọc/Lá trúc che ngang mặt chữ điền” (Đây thôn Vĩ Dạ). Ngay cả những mối tình đơn phương, những mối tình lỡ dở, những mối tình trong mộng tưởng cũng cho ta những vần thơ trong đẹp: “Ta đề chữ ngọc trên tàu lá/Sương ở cung thiềm giỏ chẳng thôi/Tình ta khuấy mãi không thành khối/Nư giận đòi phen cắn phải môi”.

Đọc Hàn Mặc Tử, ta gặp một con người thực với nỗi đau thực, thất vọng thực, những phút khủng hoảng thực nhưng đã vượt lên những nỗi thực đó để không oán giận số phận, không tuyệt vọng, không phủ nhận cuộc sống và con người. Đặc biệt, con người ấy đã phát huy tất cả nỗ lực của mình, đã thăng hoa nỗi đau tột cùng của mình thành thơ - thơ hay - thành sự cống hiến vô giá cho đời. Riêng về phương diện con người, Hàn Mặc Tử đã là một tấm gương.       

  Đặng Hiển


Ý kiến của bạn