Sân chơi ca nhạc là một phần không thể thiếu của làng giải trí. Càng đông người xem, người nghe bao nhiêu thì càng thành công bấy nhiêu, ít nhất là về khía cạnh doanh thu. Vì thế, các nhà tổ chức thường để lại phía sau các liveshow những vấn đề về chất lượng chuyên môn khiến sau mỗi đợt sóng thần tượng ào qua, khán giả không khỏi ngậm ngùi, tiếc nuối.
“Tứ trụ” diva trong làng nhạc Việt
Cách đây chừng khoảng trên dưới 10 năm, danh hiệu Diva Việt Nam đã được công chúng trao cho tứ trụ: Lam - Linh - Nhung - Hà (Thanh Lam, Mỹ Linh, Hồng Nhung, Trần Thu Hà). Nhiều người đã không khỏi băn khoăn và đặt ra câu hỏi vì sao ở Việt Nam (VN), các diva đều là phái nữ mà không có diva thuộc phái nam. Trong khi đó, những giọng ca nam cùng thời như Trọng Tấn, Đăng Dương, Việt Hoàn... đều có thể sánh ngang các giọng ca nữ. Phải chăng như vậy là thiếu công bằng và cần phải xem lại thị hiếu đám đông công chúng thời kỳ này.
Cũng chừng ấy thời gian đã qua, công chúng đã dựng nên “bức tượng” tứ trụ để rồi cùng năm tháng, dù chưa phải là dài nhưng cũng không quá ngắn đủ để nhiều giá trị phai mờ, mà danh hiệu tự phong diva cũng chẳng phải trường hợp đứng ngoài vòng xoáy khắc nghiệt của thời gian, nhan sắc và giọng ca.
Ca sĩ Mỹ Linh. |
Không ít người còn quả quyết rằng cứ nhắm mắt lại để nghe “tứ trụ” diva thì vẫn dễ dàng nhận ra họ. Chỉ có điều là không phải giọng ca của những thần tượng cách đây một thập niên, mỗi người một chất, mà dường như họ vẫn dậm chân tại chỗ, xào xáo lại những món “đồ cổ” trong một không gian biểu diễn mới với nhiều thiết bị ánh sáng, âm thanh, PR hiện đại hơn mà thôi.
Tuy nhiên, công bằng mà nói, trong nhóm tứ trụ, người chịu khó đánh bóng thương hiệu nhất là Thanh Lam. Chỉ tiếc rằng sự đánh bóng ấy lại dường như bị nhầm chỗ. Lẽ ra phải bắt đầu và chủ yếu là làm mới giọng ca và phong cách biểu diễn thì cô lại đem đánh bóng mình bằng những vụ scandal ầm ĩ. Ngay cả liveshow đình đám vừa rồi của Lam và Tùng Dương có tên Yêu cũng chỉ gây ấn tượng cho nhiều người bằng màn khoe ngực khủng, cộng với sự uốn éo đến phát ngấy của chàng ca sĩ Sao Mai chứ còn đâu là giọng ca đầy chất tự sự trữ tình thuở nào của cả hai.
Hai nàng ca sĩ chăm chỉ và đều đặn hơn là Hồng Nhung và Mỹ Linh. Nhưng từ lâu rồi đã qua cái thời nhiều người thích nghe “Đọc truyện đêm khuya” và funk-pop như cách đây hơn mười năm trở về trước. Mọi trải nghiệm mới của họ xem ra cũng chỉ là dùng ánh sáng và âm thanh đương đại cộng với một chút hào quang quá khứ vốn đã nhạt nhoà.
Với Hà Trần, từ khi lên xe hoa cùng chàng Việt kiều Mỹ, cô nàng “lặn” một hơi trong làng nhạc Việt. Gần đây, thi thoảng cô chợt quay về “đánh dậm” vài sô. Ngoài 3 ca khúc Em về tinh khôi, Bài tình cho giai nhân và đặc biệt là Nhật thực mà Hà Trần đã từng có để làm vốn liếng, hiện nay cô đang tiến dần đến con số không tròn trịa trên sân khấu ca nhạc Việt. Nhưng theo thói quen và cũng là chiêu thức làm ăn của làng giải trí là khi nhắc đến một trong số bốn cái tên kể trên, nhiều người vẫn “chua” thêm từ diva đằng trước tên của họ.
Nơi thần tượng sinh ra
Cũng cần xem lại đâu là yếu tố quyết định để một ca sĩ trở thành diva trong làng giải trí Việt. Nếu cuộc thi Sao Mai điểm hẹn xuất hiện lần đầu tiên vào 2004 là thời điểm đánh dấu ngành truyền hình VN nhập khẩu công nghệ tổ chức thi hát hiện đại thì những cuộc thi tiếng hát truyền hình trên các đài VTV, HTV (Hà Nội và TP.HCM) được coi là những bước đi cần thiết để tiến tới những cuộc thi ca nhạc hiện đại như Sao Mai, Idol...
Nhưng dù là cuộc thi theo hình thức nào đi chăng nữa cũng không thể thiếu một đội ngũ đông đảo và có tính chất quyết định, đứng sau hậu trường, từ giám đốc âm nhạc, chuyên gia luyện thanh, luyện vũ đạo, phong cách biểu diễn cho đến chuyên gia thời trang, trang điểm, tạo mẫu tóc, thậm chí đến cả chuyên gia ẩm thực, chuyên gia làm từ thiện, rồi chuyên gia quan hệ công chúng (PR)... mỗi liveshow, những chuyên gia này khoác lên hình hài, dáng vẻ, giọng ca... của các thí sinh, tạo cho họ một diện mạo khác hẳn một ngôi sao mai đang lên, mà là một ngôi sao thực thụ đã ngự trên đỉnh đầu công chúng.
Ca sĩ Thanh Lam. |
Trong vai trò biến các cô lọ lem thành những nàng công chúa, thông qua một chiến dịch truyền thông được tung ra trước, trong và sau cuộc thi hết sức rầm rộ, khiến các thí sinh thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng nổi bật lên như những người đã thực sự nổi tiếng. Thế là tâm lý lây lan như một mặc định ngầm khiến công chúng không bao giờ tiếc những tràng vỗ tay, những lá phiếu hay những cuộc tin nhắn bình chọn cho thần tượng của mình. Đã vậy, các nhà tổ chức còn quá thông minh khi trao cho khán giả quyền năng tối thượng định đoạt ai là người chiến thắng cuộc thi. Điều ấy đã tạo ra cho các thượng đế sự phấn khích tột độ và cũng tạo ra cho nền âm nhạc Việt những con người được gắn đầy nhãn mác như: ngôi sao, thần tượng.
Có những cuộc thi kéo dài trong nhiều tuần, nhiều tháng và được lặp đi lặp lại 2 năm/lần, các “ngôi sao”, “thần tượng” tương lai buộc phải liên tục làm mới mình từ hình thức bề ngoài như đầu tóc, ăn mặc, trang điểm, cách đi đứng, nói năng... đến giọng ca, phong cách biểu diễn trên sân khấu nhằm chinh phục các thượng đế của mình. Có thể nói, gương mặt người chiến thắng cuối là một loại “thần tượng” đã được khán giả “gọt chân cho vừa giày” trong suốt quá trình diễn ra cuộc thi theo đúng “khẩu vị” của đám đông đứng ngoài chuyên môn âm nhạc, nhưng lại thừa tham vọng có một thần tượng.
Một người trong cuộc đã nhận xét rằng khó có thể chờ đợi gì ở những cuộc thi hát trên truyền hình tìm ra được cho âm nhạc những con người tài năng thực thụ, nhưng giới giải trí sẽ cần những con người bước ra từ cuộc thi này, khán giả có những giờ giải trí còn các bên tổ chức được lợi từ những dự án kinh doanh thành công, đánh trúng vào ước mơ của đại bộ phận giới trẻ.