Dạo quanh thị trường, vào nhà thuốc nào cũng thấy vui mắt. Hàng hóa đa dạng, bao bì trình bày đẹp, bắt mắt. Tên thuốc thì nhiều vô kể. Người trong ngành cũng cảm thấy ngợp trước một rừng tên thuốc ấy.
Thuốc nào cũng phải có tên riêng, có thể là tên hóa học, tên khác (tên cùng nghĩa), có thể là tên generic, tên thương mại, tên biệt dược... và tên tự đặt ra không theo một quy định nào!
Thị trường thuốc nước ta với gần hàng ngàn doanh nghiệp dược trong nước và nước ngoài, tính đến nay đã có khoảng 20.000 tên thuốc được đăng ký lưu hành. Hằng năm có hàng nghìn thuốc được đăng ký tên mới.
Tại sao lại có nhiều tên thuốc như thế? Nên hợp lý hóa như thế nào?
1. Đăng ký xét duyệt thuốc: Trước đây đăng ký xét duyệt lưu hành thuốc từ A đến Z (trong đó có tên thuốc) do Vụ Dược - Bộ Y tế đảm nhiệm. Khi có luật về Sở hữu trí tuệ, đăng ký và xét duyệt tên thuốc thuộc Cục Sở hữu trí tuệ và cũng từ đó "bùng nổ" về tên thuốc. Mỗi doanh nghiệp dược đều muốn có tên thuốc riêng của mình. Paracetamol, kể cả đơn chất và phối hợp có hàng trăm tên khác nhau. Nên chăng:
- Để tên thuốc nằm trong quy trình xét duyệt lưu hành thuốc của Bộ Y tế (Cục quản lý Dược) là hợp lý. Nếu cần có sự ủy quyền giữa 2 bộ như trước đây đã làm về công tác tiêu chuẩn, đo lường và quản lý chất lượng.
- Đúng với quản lý chuyên ngành theo thông lệ quốc tế.
2. Ban hành quy chế hoặc hướng dẫn về tên thuốc:
- Lấy tên thông dụng quốc tế cho tên thuốc là chính theo quy định của Dược thư quốc tế và Dược thư Việt Nam. (International Nonproprietary Name = INN) tức là tên thuốc không còn độc quyền được áp dụng ở mọi quốc gia trong tổ chức WHO.
- Hướng dẫn thế nào là thuốc biệt dược, tên thương mại (TM), tên thuốc đã đăng ký để áp dụng thống nhất. Xóa bỏ tình trạng đặt tên thuốc vô tư đến mức tùy hứng và lạm dụng như hiện nay.
- Lập lại trật tự danh mục tên thuốc từ khoảng trên dưới 20.000 xuống khoảng 5.000 là vừa.
3. Tính văn hóa của tên thuốc:
Đặt tên thuốc cũng cần tôn trọng một số quy tắc như mang tính đặc trưng (đọc tên là đã hình dung ra thuốc), dễ phát âm, dễ nhớ, không quá nhiều âm tiết, không viết tắt hoặc các con số... Tên thuốc và hiểu về nó còn quá khó khăn cho rất nhiều người.
Đọc xong những tên thuốc như KWangmiunglenasin (levofloxacin) Decongestionantenasal (naphazolin) mà líu cả lưỡi, mệt cả người; nhưng ngược lại cũng không nên viết tắt hoặc con số như GP1 (glimepirid), ZA (acid azelaic), KMG (kaliglutamat và magne glutamat), cũng không nên dùng những chữ Việt không có như W, J, F, Z vì nó xa lạ với đa số người dân.
Có nên đặt lai Tây cho các thuốc dược thảo không cũng cần được lưu ý. Những tên như Bổ phế chỉ khái lộ, Lục vị hoàn... rất dễ xuôi tai.
4. Danh pháp hóa học: Tên thuốc phần lớn là tên hóa học. Đã có một thời, để có tự chủ và độc lập, ở ta một số danh pháp đã được thay đổi. Vì vậy, hiện nay có nhiều cách viết khác nhau có thể gây nên nhầm lẫn, hiểu sai, không nhất quán, thậm chí có thể sai chính tả... Ví dụ: vaccin viết là vacxin, iod viết là iốt, acid viết là axid hoặc axit, muối chlorhydrat viết là clohydrat... Đơn giản như tra cứu từ điển, thận trọng như thi cử quốc tế... đòi hỏi của sự tiếp cận, giao lưu quốc tế một sự chuẩn xác, thống nhất.
Nhức nhối nhất hiện nay là đơn thuốc: viết không đúng tên thuốc theo danh pháp thông dụng quốc tế (INN) mà viết tên thương mại, lại còn viết ngoáy, viết ám hiệu, viết sai.
Có lẽ đã đến lúc phải lập lại trật tự trong việc đặt tên thuốc, viết tên thuốc, lượng tên thuốc sao cho đúng và phù hợp.
Theo thống kê sơ bộ thì trên thế giới có khoảng 10.000 tên thuốc dễ gây nhầm lẫn với nhau. Việt Nam ta con số này chắc không nhỏ.
Việc hướng dẫn để tạo sự nhất quán trong việc dùng tên thuốc là rất cần thiết.
Thế Hiệp