Đó chính là những thành quả không nhỏ mà Đề án Bệnh viện vệ tinh (BVVT) mang lại. Về vấn đề này, báo Sức khỏe&Đời sống đã phỏng vấn PGS.TS. Lương Ngọc Khuê - Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh - Bộ Y tế.
PGS.TS. Lương Ngọc Khuê.
PV: Đề án BVVT đã bước sang năm thứ 4 và rất ý nghĩa với người dân cũng như các bệnh viện tuyến dưới. Có được thành quả này không thể không nói đến sự nỗ lực của các bên liên quan, trong đó là chỉ đạo sát sao của Bộ Y tế, xin PGS cho biết, Bộ Y tế đã có những chỉ đạo thế nào để tạo nên những thành công bước đầu cho Đề án?
PGS.TS. Lương Ngọc Khuê: Bước sang giai đoạn 2, Bộ Y tế đã mở rộng mô hình BVVT mở rộng ra 63 tỉnh thành trên cả nước. Hiện cả nước có 22 bệnh viện hạt nhân với trên 100 BVVT nằm trong Đề án BVVT giai đoạn 2016-2020 với 10 chuyên ngành là nội, ngoại - chấn thương, sản nhi, ung bướu, tim mạch, nội tiết, thần kinh, huyết học lâm sàng, hồi sức cấp cứu, chống độc. Nhờ hiệu quả của Đề án BVVT mà một số bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh đã nuôi sống trẻ sơ sinh nặng 600 gam và nuôi dưỡng bé sơ sinh nhẹ cân 600 gram tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Quảng Ninh, Bệnh viện Sản Nhi Ninh Bình…).
Để tiếp tục nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh tuyến dưới, giảm quá tải bệnh viện tuyến trên, đáp ứng nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh ngày càng tăng của nhân dân, Bộ Y tế và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện như cải tạo, đầu tư xây mới nhiều bệnh viện; thành lập mạng lưới BVVT; đào tạo, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới; thực hiện luân phiên bác sĩ; ban hành tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện; cải tiến quy trình khám, chữa bệnh; thí điểm mô hình bác sĩ gia đình... Những giải pháp đó đã mang lại kết quả tích cực: Tình trạng nằm ghép tại các bệnh viện đã cải thiện; thời gian chờ khám bệnh giảm; người dân được khám, chữa bệnh với kỹ thuật cao tại nhiều BVVT, bệnh viện tuyến tỉnh; tỷ lệ bệnh nhân chuyển lên tuyến trên giảm.
PV: Mới đây, có một số BV tuyến huyện như BVĐK huyện Mường Khương, BVĐK huyện Mộc Châu, BVĐK huyện Quảng Xương... cũng được tham gia vào mạng lưới Đề án BVVT. Được biết, Đề án BVVT chỉ thực hiện ở BVĐK tuyến tỉnh, xin Cục trưởng cho biết, tại sao lại có sự “xé rào” này?
PGS.TS. Lương Ngọc Khuê: Với mong muốn nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho các bệnh viện tuyến dưới, Đề án BVVT luôn đặt ra mục tiêu phải triển khai hiệu quả mới triển khai. Để việc chuyển giao giữa các BVVT và các bệnh viện hạt nhân đạt kết quả tốt cần có sự khảo sát giữa tuyến trên và tuyến dưới, giữa nhu cầu của tuyến dưới và sự đáp ứng của tuyến trên.
Việc các bệnh viện tuyến huyện tham gia Đề án BVVT là dấu hiệu đáng mừng và đáng khích lệ, khẳng định sự năng động của các bệnh viện tuyến huyện khi tham gia vào Đề án BVVT để nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh phục vụ nhân dân ngay tại địa phương. Với những bệnh viện dám nghĩ, dám làm, dám thực hiện những kỹ thuật mới để phục vụ nhân dân, Bộ Y tế đều khuyến khích.
PV: Với những thành tựu của Đề án BVVT đã thu được trong thời gian qua, chúng ta có quyền tự hào về hiệu quả thiết thực của một Đề án, tuy nhiên, bên cạnh đó sẽ còn không ít những khó khăn, vậy, để khắc phục những tồn tại này Bộ Y tế có giải pháp cũng như kiến nghị gì trong thời gian tới, thưa PGS?
PGS.TS. Lương Ngọc Khuê: Để các giải pháp giảm quá tải bệnh viện được thực hiện mạnh mẽ, hiệu quả, bền vững hơn ở các tuyến, các địa phương cần thực hiện tích cực Chỉ thị số 08/CT-TTg về tăng cường các giải pháp giảm quá tải bệnh viện, mở rộng mạng lưới BVVT.
Thủ tướng Chính phủ chỉ thị: Bộ Y tế, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung chỉ đạo mở rộng mạng lưới BVVT, ưu tiên đầu tư cho các BVVT đảm bảo có đủ điều kiện tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật.
Bộ Y tế chỉ đạo các bệnh viện tuyến trên tăng cường chuyển giao kỹ thuật và chuyên môn cho tuyến dưới, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, một tiêu chí đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ hàng năm của các bệnh viện; công bố danh sách các bệnh viện đủ tiêu chuẩn làm bệnh viện hạt nhân để các BVVT lựa chọn đề xuất hỗ trợ chuyên môn; khẩn trương ban hành quy định để các chuyên gia, bác sĩ giỏi ở các bệnh viện hạt nhân có trách nhiệm tham gia khám, chữa bệnh ở các BVVT. Không phân biệt bệnh viện Nhà nước hay bệnh viện tư nhân trong lựa chọn bệnh viện hạt nhân, BVVT.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng hệ thống hỗ trợ y tế từ xa (telemedicine) trong việc hội chẩn, hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật, tư vấn, hội thảo, đào tạo giữa các bệnh viện. Hoàn thiện hệ thống y tế cơ sở trên cơ sở gắn với mô hình bác sĩ gia đình bảo đảm phù hợp với tính chất, đặc điểm của từng vùng, miền. Triển khai nhân rộng kết quả thực hiện thí điểm mô hình bác sĩ gia đình.
Bên cạnh đó, Bộ Y tế, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ, nhóm giải pháp giảm quá tải bệnh viện, đặc biệt là: Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để huy động các nguồn vốn đầu tư xây dựng mới bệnh viện ngoài công lập, hợp tác với các bệnh viện Nhà nước theo tinh thần Nghị quyết số 93/NQ-CP ngày 15/12/2014 của Chính phủ về một số cơ chế, chính sách để phát triển y tế; Thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Thực hiện chế độ cơ sở y tế tuyến trên định kỳ cử chuyên gia, bác sĩ đến khám, chữa bệnh tại cơ sở tuyến dưới, nhất là ở các vùng khó khăn; chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng hệ thống hỗ trợ y tế từ xa (telemedicine) trong việc hội chẩn, hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật, tư vấn, hội thảo, đào tạo giữa các bệnh viện. Hoàn thiện hệ thống y tế cơ sở trên cơ sở gắn với mô hình bác sĩ gia đình bảo đảm phù hợp với tính chất, đặc điểm của từng vùng, miền. Triển khai nhân rộng kết quả thực hiện thí điểm mô hình bác sĩ gia đình.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!