Khi huyết áp thấp chân tay thường tê cóng và lạnh do cơ thể không duy trì được việc tưới máu và cung cấp oxy đến da làm giảm thân nhiệt. Bệnh huyết áp thấp sẽ xuất hiện dấu hiệu mất thính giác, thị lực giảm. Tình trạng mờ mắt đột ngột có thể gây nguy hiểm nếu như đang di chuyển trên đường. Thường xuất hiện vào buổi sáng, người bệnh cảm thấy tinh thần mệt mỏi. Sự mệt mỏi thường liên quan đến rối loạn chức năng hệ thần kinh do các cơ bị co thắt quá mức... Bên cạnh việc dùng thuốc, bạn đọc có thể kiên trì tập luôn để hỗ trợ điều trị như sau:
Phương pháp 1
Toàn thân đứng thẳng ngay ngắn. 2 tay để xuôi theo thân mình. 2 chân trái và phải mở rộng ngang tầm 2 vai. 2 bàn chân để thẳng song song, 5 ngón chân bám chặt mặt đất. 3 huyệt Bách hội (điểm giao nhau của đường nối giữa 2 đỉnh vành tai khi gấp vành tai lại và đường trục giữa cơ thể), Hội âm (nằm ngay trước hậu môn) và Dũng tuyền (điểm nối giữa 2/5 trước và 3/5 sau của đường nối đỉnh ngón chân thứ 2 và điểm giữa bờ sau gót chân, ở giữa lòng bàn chân) tạo thành một đường thẳng. Đầu mũi và rốn cũng thành một đường thẳng.
2 tay từ từ giơ lên, gấp khuỷu, lòng bàn tay ngửa hướng lên trên, đầu các ngón tay đối nhau, tay giơ quá đỉnh đầu, tưởng tượng như đang nâng một vật nặng. Đồng thời thót bụng, ngực ưỡn ra, nhíu hậu môn, 2 chân lật lên. Tập trung ý tưởng vào huyệt Bách hội, giữ hơi thở tự nhiên. Mỗi ngày tập 2 lần, mỗi lần 15 phút.
Vị trí huyệt Dũng tuyền.
Phương pháp 2
Chọn tư thế nằm hoặc ngồi bằng tròn. Nếu nằm thì nằm ngửa ngay ngắn trên giường, đầu hơi cúi về trước, 2 mắt nhắm hờ, 2 tay duỗi thẳng tự nhiên dọc theo thân mình, lòng bàn tay úp xuống, chân duỗi thẳng, 2 gót khép lại, các ngón chân xoè ra tự nhiên. Nếu ngồi thì ngồi ngay ngắn trên ghế, đầu hơi cúi về trước, 2 mắt nhắm hờ, ngực nhô lưng thẳng, 2 vai và khuỷu tay thả lỏng, ngón tay duỗi, lòng bàn tay úp xuống đặt trên đùi, 2 chân cách nhau cùng tầm với vai, gối gấp vuông góc, bàn chân bám đất. Ý thủ đan điền. Miệng hơi ngậm, thở bằng mũi, trước tiên hít vào thật sâu rồi ngừng thở giây lát, sau đó từ từ thở ra (hít vào - ngừng thở - thở ra), luân phiên đều đặn như vậy. Phối hợp với niệm câu từ, thông thường bắt đầu bằng câu có 3 chữ (khi hít vào niệm một chữ, khi ngừng thở niệm một chữ và khi thở ra niệm nốt chữ còn lại), sau đó tăng dần lên nhưng không nên quá 9 chữ. Câu gì cũng được nhưng nên chọn những câu có nội dung khoẻ mạnh như : “Tự kỷ tĩnh”, “Nội tạng động, đại não tĩnh”, “Tự kỷ tĩnh toạ”, “Tự kỷ tĩnh toạ thân thể khoẻ”, “Kiên trì luyện tập cơ thể sẽ khoẻ mạnh”... Câu từ niệm có tác dụng tập trung tư tưởng, dứt bỏ mọi ý nghĩ tản mạn, thông qua ám thị có thể dẫn đến những hiệu ứng sinh lý tương ứng với câu từ. Cần chú ý khi hít vào thì lưỡi nâng lên chạm hàm ếch, khi thở ra thì lưỡi hạ xuống và khi ngừng thở thì lưỡi bất động.
Cuối cùng, đặt 2 bàn tay chồng lên nhau xoa vùng ngực theo chiều kim đồng hồ chừng 30 vòng với một lực vừa phải. Mỗi ngày luyện từ 2 lần, mỗi lần 30 phút.
Khi luyện tập, cần lựa vị trí cho thích hợp, đảm bảo yên tĩnh, thông thoáng không bị gió lùa. Trước khi luyện tập 15 - 20 phút cần dừng mọi hoạt động thể lực và trí óc căng thẳng, đi vệ sinh và cởi bớt áo ngoài. Trong thời gian tập nên sinh hoạt điều độ, ăn uống đủ chất và có thể ăn hơi mặn một chút, không hút thuốc lá và uống rượu, tránh mọi căng thẳng tình cảm. Sau khi tập xong, không nên vội đứng lên ngay hoặc cử động mạnh, dùng 2 bàn tay xoa mặt, vuốt nhẹ 2 mắt, sau đó từ từ trở lại hoạt động bình thường. Không nên tập luyện khi quá no hoặc quá đói, khi bị cảm mạo, tiêu chảy cấp tính và quá mệt mỏi cũng nên tạm ngừng tập luyện.