Tính theo chuẩn quốc tế (tỷ lệ thuế trong giá bán lẻ), thuế thuốc lá của Việt Nam (bao gồm cả thuế giá trị gia tăng - VAT) chỉ chiếm 36% vào năm 2022, thấp hơn mức trung bình của các quốc gia có thu nhập trung bình (59%) và cách xa so với khuyến cáo của WHO (75%). So với các nước ASEAN thì Việt Nam cũng ở mức thuế rất thấp, thuế tính trên giá bán lẻ thuốc lá thấp hơn nhiều quốc gia như Thái Lan (78.6%), Phillipins (71.3%) và Singapore (67.5%).
Như vậy thuế thuốc lá ở Việt Nam hiện nay đang rất thấp so với khu vực và thế giới. Việc cần sớm tăng thuế thuốc lá là cần thiết. Và, tăng thuế thuốc lá là giải pháp đã được chứng minh giúp giảm tiêu dùng nhưng vẫn tăng thu thuế, đồng thời không ảnh hưởng một cách đột ngột đến sản xuất.
Tăng thuế thuốc không gây thất thu ngân sách
Thực tế, khi thuế thuốc lá tăng, dù tiêu dùng có thể giảm, nhưng tổng số thu thuế được vẫn tăng. Điều này là do thuốc lá là sản phẩm gây nghiện, mức độ giảm tiêu dùng thường chậm hơn so với tốc độ tăng giá. Dân số vẫn tăng, nên ngay cả khi tỷ lệ hút thuốc giảm, vẫn có một nhóm người mới hút thuốc nên tổng số người hút sẽ giảm nhưng giảm chậm. Bên cạnh đó, ở các quốc gia nơi có tỷ lệ thuế tính trên giá bán lẻ thấp như ở Việt Nam (36%), thì vẫn còn nhiều dư địa để tăng thuế thuốc lá lên mức cao hơn để có hiệu quả tốt trong việc giảm tiêu thụ và tăng thu ngân sách từ thuế.

Chưa có cơ sở cho rằng tăng thuế thuốc lá ảnh hưởng đến việc làm trong ngành sản xuất thuốc lá. (ảnh minh hoạ)
Theo Ngân hàng Thế giới, khi thuế thuốc lá tăng 10%, thu ngân sách từ thuế thuốc lá có thể tăng khoảng 7%. Kinh nghiệm từ các quốc gia đã chứng minh điều này: Tại Thái Lan, từ 1993 đến 2017, nước này đã tăng thuế thuốc lá 11 lần, hiện nay thuế TTĐB tính trên giá bán lẻ sản phẩm thuốc lá tại Thái Lan là 78,6 % giúp thu ngân sách tăng gấp 4 lần, từ 500 triệu USD lên 2,3 tỷ USDxi, trong khi tỷ lệ hút thuốc giảm từ 32% xuống còn 19,1%, và sản lượng tiêu thụ thuốc lá vẫn duy trì gần 2 tỷ bao/năm trong nhiều năm. Tương tự, sau khi Philippines cải cách thuế thuốc lá vào năm 2012, hiện nay thuế TTĐB tính trên giá bán lẻ sản phẩm thuốc lá của Philippines là 71,3 %, doanh thu thuế đã tăng từ 680 triệu USD lên 2,9 tỷ USD vào năm 2022, trong khi tỷ lệ hút thuốc giảm đáng kể từ 27% (năm 2009) xuống 19,5% (năm 2021).
Một số ý kiến lo ngại rằng việc tăng thuế thuốc lá có thể ảnh hưởng đáng kể đến việc làm trong ngành sản xuất, phân phối và trồng cây thuốc lá. Tuy nhiên, thực tiễn và các nghiên cứu cho thấy lao động ngành thuốc lá chịu ảnh hưởng chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số lao động của nền kinh tế và có thể chuyển đổi sang ngành nghề khác khi cần.
Chưa có cơ sở cho rằng tăng thuế thuốc lá ảnh hưởng đến việc làm trong ngành sản xuất thuốc lá
Theo nghiên cứu gần đây, lao động trong ngành công nghiệp thuốc lá chiếm khoảng 0,4% tổng số lao động trong nền kinh tế. Trong đó, bao gồm khoảng 13.000 công nhân nhà máy thuốc lá, khoảng 97.000 người trồng thuốc lá (qui đổi tương đương toàn thời gian) và khoảng 64.000 lao động trong lĩnh vực phân phối thuốc lá (qui đổi tương đương toàn thời gian).
Đối với nông dân trồng thuốc lá: theo báo cáo từ Bộ Công thương, hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu lá thuốc lá. Nếu tiêu thụ thuốc lá giảm, ngành công nghiệp có thể giảm mức nhập khẩu nguyên liệu lá thuốc lá mà không ảnh hưởng tới người trồng thuốc lá trong nước. Bên cạnh đó, số liệu cũng cho thấy ngay cả khi diện tích canh tác thuốc lá có xu hướng giảm từ năm 1985 đến năm 2018, nhưng năng suất cây trồng trong giai đoạn này vẫn tăng nhờ cải tiến kỹ thuật và áp dụng các biện pháp canh các hiệu quả (Hình 9). Về lâu dài, WHO khuyến cáo nông dân trồng thuốc lá nên được hỗ trợ chuyển sang các loại cây trồng khác tạo ra thu nhập tương đương hoặc lớn hơn mà không gây tác động bất lợi đến sức khỏe của con người và môi trường.
Đối với nhà phân phối/bán hàng: tại Việt Nam, ở nước ta ngoại trừ một số ít doanh nghiệp bán buôn, việc bán lẻ sản phẩm thuốc lá thường được bán cùng với nhiều loại sản phẩm hàng hóa khác (như bán ở quán cà phê, cửa hàng tiện lợi, tạp hóa, siêu thị v.v), nên ngay cả khi doanh số bán lẻ thuốc lá giảm thì cũng không ảnh hưởng đáng kể đến việc làm và thu nhập hàng ngày của những người bán lẻ này.
Đối với lao động trong ngành công nghiệp thuốc lá: số lượng lao động trong ngành thuốc lá chiếm một phần rất nhỏ trong tổng lực lượng lao động của ngành khoảng 13.000 công nhân. Trong nhiều năm tới khi nhu cầu sử dụng và sản xuất các sản phẩm thuốc lá giảm, những lao động này có thể được đào tạo lại để hỗ trợ họ chuyển sang các hình thức sản xuất khác. Điều này cũng phù hợp với chủ trương "Thực hiện các giải pháp chuyển đổi ngành, nghề cho người trồng cây thuốc lá, chế biến nguyên liệu thuốc lá, sản xuất thuốc lá". "nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ chuyển đổi, thay thế cây thuốc lá bằng cây trồng, vật nuôi phù hợp" trong Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá và Chiến lược quốc gia về phòng, chống tác hại của thuốc lá đến năm 2030.