Đây là những thuốc có tác dụng ức chế chuyển hoá từ angiotensin I thành angiotensin II, từ đó làm mạch máu được nới lỏng khiến máu lưu thông dễ dàng hơn. Do đó, thuốc được sử dụng trong điều trị bệnh tăng huyết áp. Tuy nhiên, các nhà khoa học Canada đã phát hiện ra rằng, người bệnh tăng huyết áp sử dụng loại thuốc này càng lâu thì có nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi càng cao.
Cụ thể, trung bình, bệnh nhân sử dụng thuốc ức chế ACE có nguy cơ mắc ung thư phổi cao hơn 14% so với các loại thuốc khác. Nguy cơ tăng lên ở những bệnh nhân dùng thuốc thời gian dài, người bệnh dùng thuốc trong thời gian 5 năm sẽ có nguy cơ mắc bệnh tăng 22% trong khi những người dùng thuốc trong 10 năm sẽ tăng nguy cơ lên 31%. Nguyên nhân của nguy cơ này được các nhà khoa học giải thích là do thuốc gây ra sự tích tụ bradykinin trên phổi, từ đó dẫn đến ung thư.
Các nhà nghiên cứu Canada cho biết, mặc dù 14% nguy cơ có thể không nhiều và còn cần thêm các nghiên cứu sâu rộng hơn nhưng những tác động nhỏ có thể chuyển thành hiệu ứng lớn khi một số lượng lớn bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh lý nguy hiểm này. Hiện nay, chỉ riêng tại Anh đã có tới năm triệu bệnh nhân được kê toa thuốc ức chế ACE để điều trị tăng huyết áp hoặc sau khi bị nhồi máu cơ tim. Tại Mỹ, theo Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ năm 2018, ước tính có 103 triệu người trưởng thành, tương đương gần một nửa dân số trưởng thành bị tăng huyết áp, trong đó thuốc thuốc ức chế ACE cũng là một thuốc phổ biến được sử dụng để chữa trị.