Theo Bộ LĐ-TB&XH, do tác động bởi dịch COVID-19, tình hình sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, có doanh nghiệp phải tạm ngừng hoặc thu hẹp sản xuất khiến hàng nghìn người lao động phải ngừng việc.
Do đó, việc trả lương ngừng việc và giải quyết chế độ cho NLĐ trong thời gian ngừng việc liên quan đến dịch bệnh COVID-19 cần phải căn cứ theo đúng quy định của Bộ luật Lao động để xác định.
Việc trả lương ngừng việc cho NLĐ do COVID-19 cần phải căn cứ theo đúng quy định của pháp luật.
Bộ LĐ-TB&XH yêu cầu:
Đối với các trường hợp phải ngừng việc do tác động trực tiếp của dịch COVID-19 như lao động là người nước ngoài trong thời gian chưa được quay trở lại doanh nghiệp, NLĐ phải ngừng việc trong thời gian thực hiện cách ly… thì tiền lương của NLĐ trong thời gian ngừng việc do hai bên thỏa thuận nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định (theo Khoản 3, Điều 98 Bộ Luật Lao động).
Đối với trường hợp doanh nghiệp gặp khó khăn về nguồn nguyên vật liệu, thị trường, dẫn tới không bố trí đủ việc làm, người sử dụng lao động có thể tạm thời chuyển NLĐ làm công việc khác so với hợp đồng lao động (HĐLĐ). Nếu thời gian ngừng việc kéo dài ảnh hưởng đến khả năng chi trả của DN thì người sử dụng lao động và NLĐ có thể thỏa thuận tạm hoãn thực hiện HĐLĐ theo quy định (Điều 32 Bộ luật Lao động).
Với trường hợp DN phải thu hẹp sản xuất, dẫn tới giảm chỗ làm việc thì thực hiện sắp xếp lao động theo Điều 38 hoặc Điều 44 Bộ luật Lao động (chấm dứt HĐLĐ).
Mức lương tối thiểu vùng được quy định trong Nghị định 90/2019/NĐ-CP được áp dụng từ 1/1/2020 ở 4 vùng cụ thể như sau: Vùng I (khu vực thành phố, đô thị thuộc các quận thị nội thành) là 4.420.000 đồng; Vùng II (khu vực huyện thị thuộc các tỉnh thành phố) là 3.920.000 đồng; Vùng III (các huyện thị, thị xã thuộc các tỉnh) là 3.420.000 đồng; vùng IV (vùng nông thôn, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn) là 3.070.000 đồng |