Trong đó, tập trung hướng dẫn thống nhất quy định liên quan đến nhận diện, phân loại, báo cáo sự cố và một số nguyên tắc cơ bản việc khắc phục, xử lý, xác định nguyên nhân, phòng ngừa sự cố y khoa.
Theo các báo cáo tính đến thời điểm cuối năm 2015, số lượng BV đã tham gia bảo hiểm (BH) trách nhiệm mới đạt khoảng gần 10%, gia hạn hợp đồng năm 2015 giảm so với năm 2014. Do BH trách nhiệm là loại hình BH mới mà các doanh nghiệp BH tại Việt Nam mới tiếp cận lần đầu, lại mang tính đặc thù chuyên môn cao nên cần có thời gian thử nghiệm, triển khai từng bước đối với cả về nội dung tư vấn, hướng dẫn cho các doanh nghiệp bảo hiểm cũng như tuyên truyền nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của loại hình BH này đối với các cơ sở khám chữa bệnh và người hành nghề.
Qua ghi nhận từ báo cáo các bệnh viện gửi về, Cục Quản lý Khám chữa bệnh cho biết, còn tồn tại một số khó khăn chính như: đơn vị đã tham gia mua BH năm trước nhưng chưa triển khai tham gia trong năm tiếp theo vì điều kiện thủ tục yêu cầu giải quyết rủi ro, bồi thường còn khó khăn. Trong tỉnh chỉ có vài doanh nghiệp BH hoạt động và chủ yếu hướng đến các BH ô tô, xe máy, sức khỏe, tài sản..., chưa có doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm BH trách nhiệm
Các đơn vị cung cấp dịch vụ BH trách nhiệm và các BV tự tìm hiểu, thỏa thuận, ký kết hợp đồng hay do cơ quan có thẩm quyền quyết định chỉ định thực hiện. Cục Quản lý Khám chữa bệnh sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ Tài chính, để nghiên cứu, xây dựng các hướng dẫn, quy định cụ thể mức BH, định mức cơ sở dữ liệu khác nhau về mức rủi ro, mức trách nhiệm BH theo vụ việc, chuyên khoa/đa khoa, hạng BV...,
Để tăng cường tỷ lệ tham gia Bảo hiểm trách nhiệm thời gian qua, Bộ Y tế đã tích cực để triển khai các hoạt động nhằm thực hiện các trách nhiệm Chính phủ giao cho Bộ Y tế tại quy định tại Điều 12 Nghị định 102/2011/NĐ-CP: Phổ biến nội dung Nghị định 102/2011/NĐ-CP; Hướng dẫn công tác đề phòng và hạn chế sai sót trong khám bệnh, chữa bệnh; Quy định chế độ báo cáo đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Nội dung về bảo hiểm trách nhiệm, về xây dựng hệ thống báo cáo rủi ro, sự cố y khoa cũng tiếp tục được bổ sung là một trong các nội dung quan trọng của Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện...
Theo các nhà nghiên cứu y học Mỹ, lĩnh vực y khoa là lĩnh vực có nhiều rủi ro nhất đối với khách hàng. Các chuyên gia y tế Mỹ nhận định “Chăm sóc y tế tại Mỹ không an toàn như người dân mong đợi và như hệ thống y tế có thể, ít nhất 44.000 – 98.000 người tử vong trong các bệnh viện của Mỹ hàng năm do các sự cố y khoa. Số người chết vì sự cố y khoa trong các bệnh viện của Mỹ, cao hơn tử vong do tai nạn giao thông, ung thư vú, tử vong do HIV/AIDS là ba vấn đề sức khỏe mà người dân Mỹ quan tâm hiện nay.
Sự cố y khoa do phẫu thuật: WHO ước tính hàng năm có khoảng 230 triệu phẫu thuật. Các nghiên cứu ghi nhận tử vong trực tiếp liên quan tới phẫu thuật từ 0,4-0,8% và biến chứng do phẫu thuật từ 3-16%. Theo Viện nghiên cứu Y học Mỹ và Úc gần 50% các sự cố y khoa không mong muốn liên quan đến người bệnh có phẫu thuật.
Sự cố y khoa liên quan tới nhiễm khuẩn bệnh viện: WHO công bố NKBV từ 5-15% người bệnh nội trú và tỷ lệ NKBV tại các khoa điều trị tích cực từ 9- 37%; Tỷ lệ NKBV chung tại Mỹ chiếm 4,5%. Năm 2002, theo ước tính của CDC tại Mỹ có 1,7 triệu người bệnh bị NKBV, trong đó 417,946 người bệnh NKBV tại các khoa hồi sức tích cực (24,6%).
Các nghiên cứu của các bệnh viện về nhiễm khuẩn bệnh viện được báo cáo trong các hội nghị, hội thảo về KSNK cho thấy nhiễm khuẩn bệnh viện hiện mắc từ 4,5%-8% người bệnh nội trú.
Người bị tai biến y khoa và gia đình họ có thể được bồi thường không?
Trả lời vấn đề này, Bộ Y tế cho biết, khi người bệnh bị tai biến y khoa, việc bồi thường người bệnh và gia đình của họ sẽ được thực hiện theo Luật Khám bệnh, chữa bệnh.
Theo Bộ Y tế, bệnh viện là môi trường có nhiêu nguy cơ để tai biến xảy ra. Sự cố y khoa trong môi trường y tế như kê đơn nhiều thuốc, y lệnh không rõ ràng hoặc quá nhiều y lệnh do thói quen công việc một người pha thuốc, một người tiêm; sao y đơn thuốc. Tại một số bệnh viện, hiện tượng qua tải bệnh nhân cũng dẫn đến việc cắt xén hoặc làm tắt các quy trình chuyên môn. Vi phạm đạo đức nghề nghiệp, lợi ích của người bệnh không được đặt lên hàng đầu dẫn đến việc lạm dụng thuốc. Một số chính sách, những quy định tác động đến an toàn của người bệnh như: quy định cho thuốc 2-3 ngày; đăng ký nơi khám chữa bệnh ban đầu dẫn đến giữ người bệnh ở tuyến dưới; thu viện phí theo dịch vụ dẫn đến lạm dụng các thiết bị kỹ thuật cao và các thiết bị y tế trên người bệnh không đảm bảo chất lượng.
Quá tải bệnh viện cũng khiến người bệnh thiếu kiên nhẫn và hợp tác với nhân viên y tế, nhân viên y tế quá tải chịu nhiều áp lực, luôn làm việc với cường độ cao. Nhân viên y tế chuyển việc khiến các cơ sơ khám, chữa bệnh cần bổ sung nhân lực cũng làm ảnh hưởng đến kiến thức, kinh nghiệm tại cơ sở y tế đó.
Bác sĩ Bệnh viện Bạch Mai điều trị cho bệnh nhân trong vụ việc sự cố y khoa khi đang chạy thận nhân tạo của Bệnh viện Đa khoa Hòa Bình. (Ảnh: TTXVN).
Y học mang tính xác suất và bất định cao, người bệnh trong các cơ sở y tế phải trải qua nhiều thủ thuật, phẫu thuật mà không thể làm lại, sử dụng các thiết bị nguy hiểm, thiết bị xâm lấn, các hóa chất độc cũng làm tăng nguy cơ sai sót trong y tế. Trong cấp cứu người bệnh, thời gian là điều rất quan trọng, nhân viên y tế cần phải cấp cứu với tốc độ cao, do vậy sự cố y khoa cũng dễ xảy ra. Dây truyền khám chữa bệnh phức tạp, nhiều đầu mối, ngắt quãng, nhiều cá nhân tham gia trong khi hợp tác, trao đổi thông tin giữa nhân viên y tế chưa đầy đủ và kịp thời. Bên cạnh đó, việc giao tiếp giữa nhân viên y tế và người bệnh gần như không có (nhân viên y tế nói gì là người bệnh làm theo, không có phản hồi).
Môi trường chăm sóc y tế có nhiều áp lực do quá tải, ca kíp trái với sinh lý bình thường (trong khi mọi người đang ngủ thì nhân viên y tế phải trực). Nơi làm việc chật chội, nhiều tiếng ồn, cán bộ y tế nhiều khoa bệnh phải làm việc với cường độ rất cao và áp lực tâm lý luôn căng thẳng. Việc thay đổi ca trực, chuyển giao người bệnh giữa các thầy thuốc cũng là nguyên nhân dẫn đến sự cố y khoa. Nhân viên y tế quên không lấy bệnh phẩm xét nghiệm, quên không bàn giao cho ca trực sau, quên không điền thông tin vào bệnh án,… dẫn đến việc nhầm người bệnh, tài liệu người bệnh không hoàn chỉnh, sai lỗi.
Bên cạnh đó, nhân viên y tế luôn làm việc với cường độ cao cộng với thuốc, hóa chất, dung dịch nghe giống, nhìn giống cũng là nguyên nhân gây sai sót dẫn đến sự cố y khoa.
Bên cạnh đó là nguyên nhân do lỗi cá nhân từ cán bộ y tế: Đa số chưa qua các khóa huấn luyện về an toàn đối với bệnh nhân. Không tuân tủ đúng quy tình, quy định về an toàn đối với bệnh nhân của bệnh viện khi thực hiện các kỹ thuật. Kỹ năng thực hành còn hạn chế. Việc trao đổi thông tin giữa người bệnh, nhân viên y tế và người quản lý còn nhiều hạn chế
Và nguyên nhân từ phía người bệnh: Các yếu tố về đặc điểm của người bệnh như cơ địa, sức đề kháng khác nhau cũng là điều kiện thuận lợi để sự cố y khoa xảy ra.