LTS: Thời gian vừa qua xảy ra một số ca biến chứng sản khoa gây tử vong cho sản phụ. Trong khi chờ cơ quan điều tra kết luận nguyên nhân, nhận định ban đầu có hai trường hợp, chuyên gia sản phụ khoa nghĩ tới biến chứng tắc mạch ối. Đây là một biến chứng cực kỳ nguy hiểm, tỷ lệ tử vong rất cao. Trước đây, một sản phụ tử vong tại Bệnh viện Sa Pa, Lào Cai, bác sĩ trực đã bị cơ quan chức năng khởi tố. Khi báo SK&ĐS có loạt bài điều tra và các nhà khoa học cùng cơ quan chức năng vào cuộc làm rõ nguyên nhân sản phụ tử vong do biến chứng tắc mạch ối, một biến chứng bất khả kháng, bác sĩ Hoàng Đình Trung ở Bệnh viện Sa Pa mới được minh oan. Để bạn đọc hiểu rõ hơn về biến chứng sản khoa cực kỳ nguy hiểm này, báo Sức khỏe&Đời sống xin đăng bài viết của chuyên gia sản phụ khoa Nguyễn Kim Dung.
Tắc mạch ối do đâu?
Siêu âm kiểm tra sự phát triển của thai nhi (ảnh có tính chất minh họa). |
Thời điểm gây tắc mạch ối
Tắc mạch ối thường xảy ra trong chuyển dạ nhưng cũng có thể xảy ra trong khi mổ lấy thai, sảy thai, chấn thương bụng, chọc hút nước ối, thậm chí có thể gặp tắc mạch ối sau khi đẻ, sau mổ lấy thai. Một số lý do hay gặp như: rau cài răng lược, vỡ tử cung, sót rau. Thời điểm xảy ra tắc mạch ối cũng rất khác nhau tùy trường hợp, 12% số trường hợp xảy ra tắc mạch ối khi màng ối còn nguyên, 70% xảy ra sau đẻ qua đường âm đạo, 19% xảy ra trong mổ lấy thai khi đã có chuyển dạ hay khi chưa có chuyển dạ.
Cơ chế bệnh sinh của tắc mạch ối
Cơ chế bệnh sinh của tắc mạch ối chưa được hiểu rõ. Có 3 hoàn cảnh làm cho nước ối đi vào tuần hoàn của người mẹ: Vỡ ối, vỡ tĩnh mạch tử cung hay tĩnh mạch cổ tử cung và áp lực buồng tử cung cao hơn áp lực tĩnh mạch.
Chọc rút nước ối có thể gây tắc mạch ối. |
Nước ối và tế bào thai đi vào tuần hoàn người mẹ diễn tiến qua 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Co thắt động mạch phổi gây tăng áp lực phổi, tăng áp lực thất phải thiếu ôxy. Quá trình ngừng tuần hoàn - hô hấp diễn ra rất nhanh làm cho các buồng thất không giãn ra được làm thiếu ôxy ở tim và phổi. Tình trạng thiếu ôxy gây tổn thương cơ tim và mao mạch phổi làm suy thất trái và suy hô hấp cấp. Người bệnh nhanh chóng đi vào giai đoạn hôn mê.
Giai đoạn 2: Nếu người bệnh sống sót qua giai đoạn này thì sẽ đi tới giai đoạn 2. Giai đoạn 2 đặc trưng bằng chảy máu dữ dội khắp nơi do đờ tử cung và do đông máu nội mạch rải rác.
Dấu hiệu lâm sàng tắc mạch ối
Xuất hiện đột ngột với các dấu hiệu theo trình tự thời gian. Khởi đầu là suy hô hấp, tím tái xảy ra đột ngột trong vài phút và tiếp đến là tụt huyết áp, phù phổi, choáng, biểu hiện thần kinh như: lú lẫn, mất ý thức và co giật. Trên 80% số trường hợp người bệnh có biểu hiện ngừng tim, ngừng thở trong vài phút đầu tiên. Có đến 50% số trường hợp tử vong ngay trong giờ đầu xuất hiện triệu chứng.
Nếu người bệnh thoát qua được giai đoạn này (khoảng 40% số trường hợp) sẽ có biểu hiện chảy máu dữ dội nhiều nơi do đờ tử cung (nếu sau đẻ) và do đông máu rải rác trong lòng mạch. Chảy máu từ tử cung không thể cầm được. Số trường hợp có biểu hiện phù phổi ở giai đoạn này cũng cao.
Khi bong rau vị trí rau bám có thể là nơi nước ối lọt vào tuần hoàn của mẹ gây tắc mạch ối. |
4 tiêu chuẩn chẩn đoán tắc mạch ối
Theo Hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ và Anh khuyến cáo, chẩn đoán tắc mạch ối khi có đồng thời 4 tiêu chuẩn sau:
- Tụt huyết áp đột ngột hay ngừng tim;
- Thiếu ôxy cấp tính;
- Bệnh lý đông máu hay chảy máu nặng mà không có các lý giải khác;
- Tất cả xảy ra trong chuyển dạ, mổ lấy thai hay trong vòng 30 phút sau đẻ mà không có lý giải nào khác cho các dấu hiệu này.
Các xét nghiệm phục vụ chẩn đoán: Xét nghiệm khí trong máu; công thức máu; đông máu; Xquang phổi: thường không tìm thấy dấu hiệu đặc hiệu, có thể quan sát thấy dấu hiệu phù phổi; điện tâm đồ: có thể thấy nhịp tim nhanh, phần ST và sóng T thay đổi.
Tắc mạch ối là một cấp cứu sản khoa không thể dự báo được, không thể dự phòng được và trong hầu hết các trường hợp là không thể điều trị được. Chưa có một can thiệp nào cho thấy cải thiện tiên lượng của sản phụ bị tắc mạch ối. Tắc mạch ối thực sự là một thảm họa không chỉ đối với nhân viên y tế mà còn đối với cả gia đình sản phụ. Ở Hoa Kỳ, ước tính 1 trường hợp tắc mạch ối 8.000 - 30.000 thai nghén. Một nghiên cứu ở Canada từ năm 1991 - 2002 trên 3 triệu trường hợp đẻ trong bệnh viện cho thấy, tỷ lệ tắc mạch ối là 14,8/100.000 trường hợp đẻ đa thai, 6,0/100.000 đẻ một thai. Nghiên cứu trong khoảng thời gian 2000-2002 ở Anh cho thấy tỷ lệ gặp tắc mạch ối là 3,7/1 triệu trường hợp thai nghén và tử vong mẹ do tắc mạch ối lên đến gần 80%. Tuổi sản phụ cao thì nguy cơ bị tắc mạch ối nhiều hơn. Tuổi mẹ từ 35 trở lên kéo theo nguy cơ cao bị tắc mạch ối. Con rạ có nguy cơ cao hơn con so. Người ta thấy 75% số trường hợp tắc mạch ối xảy ra ở người đẻ con rạ. Về giới tính của thai: 67% số trường hợp tắc mạch ối là mang thai trai. Mổ lấy thai, đẻ đường dưới có can thiệp thủ thuật foóc-xép hay giác kéo có nguy cơ cao hơn đẻ thường. Đa ối, đa thai (tử cung quá to), thai chết lưu, vỡ ối, rách cổ tử cung, vỡ tử cung, rau tiền đạo, rau bong non, sản giật, gây chuyển dạ cũng là yếu tố nguy cơ gây tắc mạch ối. |
BSCKII. Nguyễn Kim Dung