TS. Alastair O'Brien, Đại học College London, Anh đã tiến hành nghiên cứu ATTIRE trên 777 bệnh nhân có mức albumin huyết thanh dưới 30 g/l. Đối tượng nghiên cứu sau khi phân nhóm ngẫu nhiên sẽ được điều trị theo phác đồ tiêu chuẩn (nhóm chứng) hoặc được truyền bổ sung albumin 20% trong vòng tối đa 14 ngày (nhóm thử). Albumin là một loại huyết tương protein ở trong cơ thể người. Thuốc được bào chế dưới dạng dung dịch để tiêm tĩnh mạch.
90% đối tượng tham gia mắc bệnh gan do rượu. Kết quả cho thấy, trong vòng từ 3 đến 15 ngày sau khởi đầu điều trị, tần suất mắc các biến cố (bao gồm nhiễm khuẩn mới, rối loạn chức năng thận và tử vong) ở nhóm thử là 29,7%, không có sự khác biệt so với nhóm chứng. Khi xét từng biến cố, nhóm nghiên cứu cũng không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa nào, trong đó tỷ lệ tử vong ở nhóm thử là 7,9% và ở nhóm chứng là 8,3%. Đồng thời, cũng không có sự chênh lệch đáng kể giữa hai nhóm về tỷ lệ tử vong ở 28 ngày, 3 tháng và 6 tháng.
Tiềm ẩn tác dụng phụ nghiêm trọng khi dùng albumin ở bệnh nhân xơ gan mất bù.
Về tác dụng phụ, số bệnh nhân xuất hiện tình trạng quá tải thể dịch ở nhóm chứng và nhóm thử lần lượt là 23 và 8. Bên cạnh đó, phù phổi cấp cũng xảy ra ở 15 bệnh nhân có sử dụng albumin và 4 bệnh nhân được điều trị theo phác đồ tiêu chuẩn. Đây đều là những tác dụng phụ nghiêm trọng đe dọa đến tính mạng.
Theo TS. O’Brien, việc sử dụng nhiều albumin không đem lại hiệu quả thực sự. Kết quả nghiên cứu có thể gây tranh cãi với các bác sĩ đã tin tưởng vào liệu pháp này, nhưng vẫn được hy vọng làm thay đổi thực tế điều trị. Ngoài ra, đối với bệnh gan tiến triển, tỷ lệ sống sót tương đối thấp, một phần ba số bệnh nhân nhập viện đã tử vong trong vòng sáu tháng, việc điều trị khó có thể cải thiện tình hình.