Tuy nhiên, còn rất ít người biết ánh sáng được các bác sĩ sử dụng rất rộng rãi trong điều trị và phòng bệnh.
Sử dụng ánh sáng xanh điều trị mụn
Phân loại ánh sáng chữa bệnh
Ánh sáng có bản chất là sóng điện từ có bước sóng từ 10nm (nanomet) đến 400mm (1nm = 1/1000mm). Ánh sáng bao gồm ba vùng: Vùng ánh sáng nhìn thấy có bước sóng trong khoảng 380-760nm. Trong dải ánh sáng nhìn thấy từ bước sóng dài đến ngắn dần cho ta cảm giác 7 màu sắc liên tiếp nhau (đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím). Còn hai vùng ánh sáng nữa mà chúng ta không nhìn thấy là vùng ánh sáng có bước sóng dài hơn bước sóng của ánh sáng nhìn, từ 760-400mm và nằm bên ngoài ánh sáng màu đỏ nên được gọi là tia hồng ngoại. Vùng ánh sáng không nhìn thấy thứ hai có bước sóng ngắn hơn bước sóng của ánh sáng nhìn thấy, từ 10nm đến 380nm và nằm dưới ánh sáng màu tím nên được gọi là tia tử ngoại. Trong ánh sáng mặt trời có cả ánh sánh nhìn thấy, tia tử ngoại và tia hồng ngoại. Tỉ lệ tính theo phần trăm năng lượng của các thành phần trên trong ánh nắng mặt trời những ngày hè trời quang mây từ 10h đến 14h là: 10% tử ngoại, 40% ánh sáng nhìn thấy, 50% là hồng ngoại. Ánh sáng khi được chiếu lên da, năng lượng của ánh sáng được da và tổ chức dưới da hấp thu và chúng gây ra các hiệu ứng sinh học khác nhau như:
Tia tử ngoại: Được chia làm ba vùng có ký hiệu A, B và C. Tia tử ngoại A (UVA) có bước sóng từ 320nm đến 380nm có tác dụng gây giãn mạch, đỏ da. Tia tử ngoại B (UVB) có bước sóng 280nm đến 320nm có tác dụng lên quá trình chuyển hóa và các phản ứng sinh học của cơ thể để tạo ra các chất có hoạt tính sinh học cao như vitamin D, histamin, serotonin, melanin… Tia tử ngoại C (UVC) có bước sóng ngắn nhất (200-280nm) có tác dụng phân hủy protein và diệt khuẩn mạnh.
Người bệnh cần mang kính bảo hộ khi thực hiện ánh sáng trị liệu
Tia hồng ngoại: Còn được gọi là tia nhiệt. Mô cơ thể khi hấp thu tia hồng ngoại sẽ tăng nhiệt độ, gây giãn mạch tại chỗ, tăng lưu thông máu, tăng tái tạo mô để hàn gắn vết thương, tăng khả năng thực bào của bạch cầu và tăng di chuyển của bạch cầu, tăng khả năng chống viêm, giảm nề đồng thời gây ra một loạt các hiệu ứng sinh học khác.
Ánh sáng nhìn thấy tùy theo màu sắc có tác dụng lên thần kinh trung ương. Màu đỏ gây hưng phấn, kích thích. Màu xanh gây an thần, trấn tĩnh. Màu xanh dương có bước sóng 400-500nm (tốt nhất là 450-460nm) có tác dụng làm biến đổi bilirubin gián tiếp (độc cho não trẻ sơ sinh) ở lớp mỡ dưới da thành chất đồng phân hoặc chất oxy hóa không độc và hòa tan được trong nước để đào thải qua mật và nước tiểu.
Sử dụng ánh sáng điều trị bệnh lý xương khớp
Ứng dụng ánh sáng trong chữa bệnh
Lợi dụng các tác dụng đó của ánh sáng, người ta đã sản xuất ra các đèn hồng ngoại, đèn tử ngoại, đèn có ánh sáng xanh dương để sử dụng trong điều trị và phòng bệnh. Hiện nay các phương tiện này được sử dụng khá phổ biến ở các khoa Vật lý trị liệu của các bệnh viện để chữa bệnh như:
Sử dụng đèn tử ngoại: Để diệt khuẩn không khí trong các buồng mổ, buồng thay băng, tiệt khuẩn dụng cụ phẫu thuật. Tắm tử ngoại để dự phòng và điều trị còi xương cho trẻ em, tăng cường sức khỏe cho người mới ốm dậy trong giai đoạn bình phục bệnh, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể trước các vụ dịch. Sử dụng tia tử ngoại để điều trị các bệnh ngoài da như bệnh vảy nến, vảy phấn hồng Giber, ezema, bệnh bạch biến, rụng tóc thành đám; điều trị các vết thương, vết loét lâu liền…
Sử dụng tia hồng ngoại: Để điều trị các chứng đau do các căn nguyên thần kinh như hội chứng thắt lưng hông, hội chứng đau vai-gáy, đau do viêm rễ và dây thần kinh. Điều trị các vùng viêm do nhiễm khuẩn hoặc không do nhiễm khuẩn như viêm cơ, mụn nhọt, chắp lẹo, viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, thoái hóa khớp. Tăng cường dinh dưỡng tuần hoàn cho các vùng thiếu nuôi dưỡng do các bệnh lý mạch máu và thần kinh, các vết thương, vết loét lâu liền, các tổ chức sẹo xấu, kém nuôi dưỡng. Làm giảm nề sau chấn thương, làm nhanh liền sẹo các vết thương, vết loét. Trong thẩm mỹ dùng để tăng dinh dưỡng cho da mặt…
Ánh sáng xanh chữa vàng da ở trẻ sơ sinh
Tia laser: Là tia sáng đơn sắc, được ứng dụng rộng rãi trong y học cả trong ngoại khoa và nội khoa. Trong ngoại khoa sử dụng laser công suất cao để phẫu thuật làm bốc bay các khối u, can thiệp điều trị thoát vị đĩa đệm, xóa các vết xăm, mụn cơm, nốt ruồi trên da, trong các phẫu thuật mắt (mổ chữa cận thị, loạn thị, hàn võng mạc bị bong…). Trong nội khoa sử dụng laser công suất thấp để điều trị viêm, kích thích liền vết thương, làm giảm nề, giảm đau, laser nội tĩnh mạch, laser châm…
Sử dụng ánh sáng nhìn thấy: Sử dụng đèn có ánh sáng màu xanh dương để điều trị vàng da ở trẻ sơ sinh. Trong đời sống hàng ngày có thể tận dụng ánh nắng mặt trời như tắm nắng trên bãi biển, tắm nắng cho trẻ em để chữa còi xương… Ánh sáng là một phương tiện điều trị bệnh hiệu quả, an toàn, hầu như không độc hại và rất rẻ tiền.